08 Biến đổi


Chương tám
Biến đổi

Linh Đạo của chúng ta càng tiến triển thì chúng ta càng giống Đức Giêsu và thâu thập tính cách linh đạo của Ngài. Chúng ta cũng thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Cho tới bây giờ sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa là những gì học hỏi từ thuở bé. Chúng ta hình dung Thiên Chúa giống như cha đẻ của chúng ta. Nếu chúng ta sống gần gũi với cha chúng ta, rất có thể chúng ta cũng sống gần gũi với Thiên Chúa. Nếu chúng ta không sống gần gũi với cha chúng ta, thì cũng rất khó mà sống gần gũi với Thiên Chúa.
Giờ đây chúng ta sống gần gũi Đức Giêsu và bắt đầu nhìn bằng con mắt của Ngài, chúng ta cũng bắt đầu thu thập cách Ngài hiểu về Cha của Ngài. Chúng ta bắt đầu nhận thấy Thiên Chúa vĩ đại hơn con nguời, hoặc cũng có thể như là con người. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha, tuy nhiên Ngài diễn tả Cha của ngài vượt hơn những gì thuần tuý là cha. Thiên Chúa vĩ đại hơn nhiều. Người cha trong câu chuyện Đứa Con Hoang Phí thì lại giống như người mẹ đau khổ khi thấy đứa con trở về. Ông không biết làm thế nào cho đứa con hiểu rằng ông vẫn yêu nó. Tình đời không mấy khi thấy lớn lao như ông mà đón đứa con trở về lại nhà. Nhưng chính đó là cảm nghĩ mà Đức Giêsu muốn bày tỏ về tình yêu của Cha Ngài. Nó cũng giống như chuyện người chăn chiên lành đi tìm con chiên lạc và bị thương tích. Khi anh tìm được nó thì anh bế nó lên vai mà đem nó về nhà. «Thiên đàng vui mừng khi thấy có một người tội lỗi hối cải hơn là có được chín mươi chín người công chính không cần phải hối cải gì cả.» Có người nói rằng đó là Chủ chiên lành và Đức Giêsu muốn ám chỉ về Ngài. Nhưng bạn hãy nghe Đức Giêsu nói với Philíp, «Anh không biết rằng khi anh thấy Tôi là anh thấy Cha Tôi sao». Sự ấm cúng, êm ái , nồng hậu và lo lắng của người Cha đối với con cái Ngài và biết cả đến từng sợi tóc, chứng tỏ một nỗi quan tâm vượt trên tất cả những gì là nhân loại, là phụ tử hay mẫu tử. Ngài siêu việt tất cả những gì chúng ta có thể hiểu được. Đức Giêsu sống như là luôn luôn có Cha Ngài ở với, là nguồn lực, là bạn thiết yếu cho tất cả những gì Ngài làm. Ngài nói cho chúng ta biết Cha của ngài đối với Ngài là thế nào, Cha của ngài cũng đối xử như vậy nếu chúng ta mở lòng ra với Cha của Ngài. «Ai đón tiếp Ta thì Cha của Ta và Ta sẽ đến trú ngự nơi họ».
Đức Giêsu cũng cố gắng giúp chúng ta hiểu rằng Cha của Ngài không những chỉ quan tâm đến loài người, nhưng cả đến những loài thấp hèn nhất. «Hãy nhìn chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không tích trữ kho lẫm. Nhưng Cha của anh chị trên trời cũng lo lắng cho chúng». Chúng ta thấy Thiên Chúa có một tình yêu sâu đậm, bao la mà chúng ta không thể hiểu được, tình yêu ấy được trao ban cho cả thụ tạo bé nhỏ nhất để chúng được hạnh phúc. Một trong những đặc điểm mà Đức Giêsu muốn nói về Cha Ngài là sự tha thứ. Đó là một quan niệm cách mạng đối với những người cùng thời với Đức Giêsu và ngay cả với những người thời đại này. Mặc dù nhiều ngôn sứ cố gắng diễn tả hình ảnh một Thiên Chúa hiền dịu và yêu kiều trang điểm cô dâu yêu quí Israel của Ngài, nhiều đoạn trong sách Cựu Ước lại diễn tả Thiên Chúa như là một vị Chúa ưa thù oán, không ngại sát hại hàng ngàn dân Ngài khi họ xúc phạm đến Ngài. Nhưng đấy không phải hình ảnh Đức Giêsu trình bày về Cha của Ngài. Ngài không ngừng diễn tả Cha ngài là một vị Chúa hay yêu thương và tha thứ. Đức Giêsu nói với những người đến nghe ngài rằng họ phải yêu thương kẻ thù và làm việc thiện cho những người ganh ghét mình, và cầu nguyện cho những người bách hại và cáo gian mình, có như vậy họ mới được làm con cái của Cha Ngài trên trời là đấng yêu thương kẻ công chính cũng như người không công chính. Rồi Ngài lại bảo họ hãy nên toàn thiện như Cha của họ trên trời là đấng toàn thiện. Toàn thiện đây không phải là toàn thiện trong việc tuân giữ lề luật, nhưng là toàn thiện trong yêu thương, yêu thương cả kẻ thù địch. Sự toàn thiện nơi Thiên Chúa không phải là tuân giữ lề luật, nhưng là tình yêu không diễn tả được của Ngài. Tình yêu là định nghĩa của Thiên Chúa. Chính đó là yếu tính của Ngài. Chính đó là điều làm cho Thiên Chúa là Chúa. Do đó, khi bảo chúng ta nên toàn thiện như Cha của ngài, Đức Giêsu thách thức chúng ta hãy yêu thương hết mình và vô vị lợi như Cha của Ngài, nhất là luôn luôn tha thứ như Cha của Ngài.
Tuy nhiên Đức Giêsu cẩn thận không mô tả Cha ngài như một nhân vật nhiều tình cảm và lơ là về luân lý. «Không phải ai gọi Ta, “thưa Thầy, thưa Thầy” là sẽ vào nước trời, nhưng ai thực hành ý muốn của Cha Ta trên trời thì sẽ được vào nước trời. Trong ngày ấy nhiều người sẽ nói với Ta “Thưa Thầy, chúng tôi đã không nói tiên tri với danh Thầy, trừ quỉ với danh Thầy, làm nhiều phép lạ với danh Thầy sao?” Nhưng Ta sẽ bảo họ,”Ta không biết các ngươi là ai. Cút đi, các nguơi là những kẻ bất chính”». Chính Đức Giêsu thi hành công lý của Cha Ngài.
Lời cảnh cáo với người tôi tớ bất khoan dung cũng mô tả một hình ảnh quân bình của Cha. «Và ông chủ của hắn nổi giận mà ra lệnh tra tấn hắn cho đến khi hắn trả hết nợ. Cha của Ta trên trời cũng đối xử với các ngươi như vậy, nếu các ngươi không thực lòng tha thứ cho anh em.»
Ý tưởng về tha thứ là một yếu tố thiết yếu của linh đạo của Đức Giêsu. Nền linh đạo được mô phỏng theo sự sống của Thiên Chúa và yếu tính của Ngài. Tha thứ cho kẻ làm hại mình là dấu chỉ một đời sống thiêng liêng đích thực. Không tha thứ là biến đời sống thiêng liêng thành giả tạo. Tuy thế, người Kitô lại không mấy quan tâm đến sự tha thứ. Có lẽ lý do là chúng ta không hiểu được tại sao Đức Giêsu đòi phải tha thứ. Bề ngoài xem như Đức Giêsu đặt gánh nặng trên mọi người, nhưng không phải vậy. Thường thì Ngài không để gánh nặng đè trên mọi người mà còn làm nhẹ bớt những gánh nặng họ đang mang. Cái trách nhiệm phải tha thứ thật vĩ đại và xem ra không thể thực hiện được. Sau một thời gian phấn đấu với vấn đề này, ngày nọ Phêrô vênh vênh tự đắc hỏi Đức Giêsu, «Thưa thầy, tôi phải tha thứ anh em đến mấy lần nếu anh em phạm lỗi với tôi, có phải bảy lần chăng?» Đức Giêsu trả lời làm mọi người ngỡ ngàng, «Không phải bảy lần, nhưng bảy mươi bảy lần. »
Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta đây? Ai mà có thể tha thứ mãi mãi? Điều này xem ra mâu thuẫn với những gì Ngài chủ trương. Nhưng Ngài đang cố gắng biến đời sống con người ra đơn sơ và có lý hơn. Một ngày nọ tôi thấy được rõ ràng những gì Đức Giêsu muốn thực hiện. Trong một dịp nào đó Ngài nói rằng lề luật được đặt ra cho con người, chứ không phải con người cho lề luật. Rồi Ngài trưng dẫn thí dụ vua Đavít lấy bánh thánh ăn vì đói. Quan niệm của Đức Giêsu về lề luật là phải làm việc thiện cho tha nhân.
Áp dụng nguyên tắc này cho việc tha thứ, nó sẽ cho biết tại sao Đức Giêsu đòi phải tha thứ. Tôi rất ngạc nhiên khi đọc những lời sỉ vả khinh bỉ mà Ngài phải chịu mỗi ngày. Bạn không bao giờ thấy Ngài tức giận. «Lạy Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không hiểu biết việc họ làm». Đó là thái độ quan trọng nhất trong trí óc của Đức Giêsu, do đó Ngài không để ý đến những ganh ghét và âm mưu của nhóm Pharisêu, những bạc tình của dân chúng bỏ đi sau khi được chữa bệnh mà không lời cám ơn, những hỗn láo của các môn đồ, sự ngu xuẩn của những vị lãnh đạo tôn giáo là những người lẽ ra phải bênh vực Ngài nhưng lại là những thù địch chua cay. Nơi nơi Ngài bày tỏ sự dịu hiền và ân sủng mặc cho mình bị đối xử thế nào. Điều này cho thấy Ngài thực hành trong suốt đời những gì Ngài áp đặt cho những ai theo Ngài. Ngài cũng không trao thêm gánh nặng cho những ai theo Ngài. Thực vậy, Ngài ban cho họ bí quyết an bình và sự trầm tĩnh của Ngài. «Đừng tức giận khi ai làm hại các người». Hiểu được nỗi lo âu cũng như những áp lực của đời sống tha nhân và sự đau khổ đã làm cho họ hành động lệch lạc không suy nghĩ, bạn sẽ thấy xót thương họ. Bạn cũng ngăn chận được những đau khổ và lo buồn mà bạn có thể phải gánh lấy nếu bạn để lòng mình bực tức. Như thế, bạn sẽ được tự do và không giận dữ hay oán hờn. Đó là bí quyết được an bình. Thực vậy, Đức Giêsu nói «bảy mươi bảy lần» là đúng. Nếu bạn tha thứ, thì phải luôn luôn tha thứ, không phải chỉ đôi lần, nếu không thì không đúng. Bạn đừng để tâm hồn mình bị tổn thương nếu bạn muốn được an tĩnh. Điều này hơi khó đối với người tập sự, nhưng với thời gian việc lơ đi trước đau khổ sẽ trở thành như bản tính thứ hai của mình. Đời sống con người có thể thay đổi được bằng cách này. Đó là một nhân đức thần linh nhất.
Một khi Đức Giêsu đến cư ngụ nơi tâm hồn của chúng ta thì ân sủng đầu tiên Ngài ban cho là sự an bình. Đó là lý do tại sao tha thứ là quan trọng đối với Ngài vì nó duy trì an bình nơi chúng ta. An bình nội tâm là mãnh đất màu mỡ để làm vườn. Khi có náo động thì không thể có đời sống nội tâm, cũng không có nơi để suy nghĩ mà phát triển đời sống tu đức. Đức Giêsu nói với chúng ta, nếu có sự an bình nơi tâm hồn của chúng ta.
Một khi có sự an tĩnh thì Thiên Chúa bắt đầu hoạt động. Chúng ta thấy Đức Giêsu không bị vật chất ràng buộc. Ngài thích thú ngắm nhìn những gì Ngài thấy trong thiên nhiên, nơi loài thụ tạo của Cha Ngài. Có lúc Ngài ngồi ngắm nhìn cái đẹp của biển và màu sắc thay đổi của bầu trời, bông hoa nơi cánh đồng và loài vật trong thiên nhiên. Xem ra chúng chỉ là những việc nhỏ nhen, nhưng nếu các tác giả Phúc âm đã nhọc lòng kể lại thì đấy phải là những hành động mà các ông thán phục và rất có ý nghĩa. Nhiều người hàng ngày trên đường đi làm qua những cái đó, hay khi lái xe qua cánh đồng quê nhưng lại không để ý thấy chim trời hay mây bay hoặc bông hoa dọc đường. Họ bận rộn với công việc làm ăn hay những vấn đề cá nhân mà không thấy được những gì bên ngoài họ. Họ đi qua đời sống như đi trong con đường hầm tối tăm. Thật đáng tiếc! Để ý đến vạn vật chung quanh mình chứng tỏ Đức Giêsu cảm thức những gì Ngài nhìn thấy trong vũ trụ. Tuy nhiên, đó là cảm thức thong dong không có ước muốn chiếm hữu để được hạnh phúc. Một trong những điều chúng ta vấp phạm là không chỉ thán phục và thưởng thức mà còn muốn chiếm hữu và hưởng thụ những gì chúng ta xem thấy. Điều này đã trở thành như một bệnh ghiền nơi nhiều người trong chúng ta và làm đánh mất cái an tĩnh của tâm trí. Sau một thời gian lòng ham muốn chiếm hữu gây nên lệch lạc và ám ảnh. Đức Giêsu nói đến điều đó khi Ngài nói rằng người giàu vào thiên đàng khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Không phải Ngài lên án việc có của cải, nhưng là lên án lòng ham muốn nó, như là phụng thờ nó như phụng thờ Thiên Chúa. Nếu không cẩn thận thì lòng ham muốn lại thay thế việc thờ phụng Thiên Chúa và khiến chúng ta làm những việc bất thiện để duy trì và tăng thêm của cải, cả đến việc hủy diệt tha nhân. Như thế thì việc thoát ly khỏi của cải vật chất là ưu tiên trong việc tu đức của Đức Giêsu và Ngài đã nêu gương bằng chính đời sống của Ngài. Ngài sống thoát ly khỏi mọi chiếm hữu một cách kỳ diệu. Không có tài liệu nào chứng minh rằng Ngài làm chủ một vật gì, kể cả đồng tiền hay đồ trang sức, mặc dù chúng ta thấy ngài lưu ý và thưởng thức những vật đơn sơ nhất trong tạo vật. Chính cái thích thú thoát ly khi nhìn ngắm vạn vật này là đặc trưng đời sống của Ngài và có thể giúp chúng ta phát triển đời sống tu đức giống như Ngài.
Theo chân Ngài trong Phúc âm chúng ta thấy sự liên hệ của Ngài với dân chúng. Họ rất thoải mái và không trang trọng. Ngài tự nhiên giữa những công chức, giữa những người phung hủi lang thang đồng quê cũng như với các em bé trèo leo lên người Ngài. Cái đẹp là ở chỗ tự nhiên chứ không giả tạo. Ngài không muốn tỏ ra mình tử tế khi đến với người phung hủi vì họ mang bệnh phung hủi. Ngài tiếp đón một người phung một cách tự nhiên như khi tiếp đón một viên chức của triều đình Hêrốt. Ngài có khả năng làm thế ấy là vì Ngài biết rằng mỗi người chúng ta là con cái trong gia đình của Cha Ngài và ai cũng có phẩm giá như nhau. Chúng ta giảng dạy thế đó, nhưng Đức Giêsu thì tin thế đó và chúng ta cũng thấy thế đó trong chính lối sống của Ngài. Thật là lạ lùng. Nó có sức thu hút đối với dân chúng.
Thực hành điều đó trong đời tu đức không phải là dễ dàng và cũng không thể áp đặt. Khi đức tin của chúng ta vững mạnh hơn và Chúa Thánh Linh thúc đẩy chúng ta nhìn thấy phẩm giá của mỗi người con cái của Thiên Chúa, ơn Chúa sẽ giúp đem bác ái đến với mọi người và không còn ai là người xa lạ đối với chúng ta. Chúng ta không thể thực hành điều này nếu không được Thiên Chúa ban cho lòng tin và bác ái trong một thời điểm nào đó. Nếu chúng ta không có được điều đó, chúng ta phải tạm thời chấp nhận và cầu xin một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta ân sủng để thực hành cái trình độ cao quí này của bác ái như chúng ta muốn. Bác ái không thể gượng ép. Nó phải phát xuất một cách tự nhiên từ nguồn mạch tình yêu. Thực hành bác ái ở mức độ cao với người láng giềng không phải là dễ dàng mà còn có cơ nguy. Cần phải khôn ngoan. Đặc biệt trong trường hợp này chúng ta cần phải đơn sơ như chim câu nhưng lại khôn lanh như con chồn như Đức Giêsu đã cảnh cáo. Ngài thấu hiểu lòng dạ mọi người với cái nhìn thoáng qua. Chúng ta không có được đặc ân đó nên không thể hoạt động một cách thong dong như Ngài. Ngài cũng đã phải cẩn mật, như khi Ngài lên Giêrusalem mà không đi cách công khai bởi vì Ngài không muốn gieo mình vào tay đám đông vì Ngài thấu rõ lòng dạ họ.
Còn một phương diện quan trọng nữa trong linh đạo của Đức Giêsu, đó là thực hành ý muốn của Cha Ngài. Đó không phải là điều độc nhất của Đức Giêsu nhưng còn là của mỗi người chúng ta nữa. Mọi người chúng ta phải thực thi ý muốn của Cha chúng ta. Đức Giêsu đã sống như thế. Đi theo con đường của Ngài là đặc điểm của đời tu đức. Đó là vì ý thức rằng chúng ta được tạo dựng cho Ngài, để thực hiện một công tác Ngài giao phó. Chúng ta thuộc về Thiên Chúa và mỗi tối khi gối đầu trên gối, chúng ta phải nghĩ rằng «Lạy Chúa, con đã làm xong mọi việc trong ngày. Có thể không hoàn toàn nhưng con đã cố gắng. Con sống là để thi hành công việc của Ngài. Con thuộc về Ngài. Xin yêu thương con. Xin ban bình an cho con».
Ý thức rằng mình là cộng sự viên của Thiên Chúa và của Đức Giêsu sẽ có một tác động mạnh mẽ trên chúng ta. Chúng ta biết rằng mình thuộc về Thiên Chúa và Ngài chăm sóc chúng ta vì chúng ta thi hành công việc của Ngài. Ý tưởng này làm cho chúng ta vững dạ và tin rằng dù việc gì có xảy ra trong ngày, Thiên Chúa cũng giúp giải quyết và đem lại kết quả tốt lành.
Tôi còn nhớ rõ ràng một câu chuyện thời thơ ấu. Trong thế chiến thứ hai, cha của tôi được lệnh nhập ngũ. Cha tôi có chín đứa con ở nhà. Các ký giả thay nhau đến phỏng vấn gia đình tôi. Họ hỏi cha của tôi có giận không khi được lệnh nhập ngũ, vì ông đang có một tiểu đội phải chăm sóc tại gia! «Không», cha tôi trả lời. «Cũng có lúc chúng ta phải làm tròn nhiệm vụ với đất nước». «Nhưng ai chăm lo cho vợ con ông?», một ký giả hỏi. Cha tôi trả lời, «Nếu Thiên Chúa dùng được tôi để chăm sóc gia đình tôi, thì Ngài cũng tự làm được không cần có tôi».
Chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng Thiên Chúa là một cộng tác viên trong đời sống của chúng ta. Ngài nhất định phải quản lý công việc của chúng ta cho đến khi hoàn tất. Đức Giêsu không bao giờ nghi ngờ rằng công việc của cha Ngài sẽ không được hoàn thành trong đời sống của Ngài. Chúng ta cũng phải vững tin công việc của Thiên Chúa sẽ được hoàn thành trong đời sống của chúng ta như vậy. Đó là ý muốn của Ngài và Ngài sẽ không nản lòng. Vì thế chúng ta có đảm bảo rằng Ngài sẽ luôn ở bên cạnh chúng ta mà hướng dẫn và giúp đỡ để hoàn thành kiệt tác của Ngài. Từ muôn thuở Ngài đã có chương trình cho đời sống của chúng ta. Thỉnh thoảng hay thường xuyên cũng có những sai lầm. Các vấn đề khó khăn có thể xảy ra và xảy ra thường xuyên nữa. Sức khoẻ có thể bị suy bại. Những khó khăn có thể mọc lên tứ bề. Bạn bè có thể ra đi. Những ngờ vực có thể làm quấy rối. Tăm tối có thể bao trùm lấy chúng ta. Sự dữ có thể tràn ngập. Nhưng không sao. Thiên Chúa vẫn luôn ở bên chúng ta, để lo cho công việc được chu toàn… Thật là cảm động khi biết rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta để hoàn thành công việc của chúng ta. Tôi đã thấy nhiều trong đời tôi và không ngừng ngạc nhiên khi thấy Thiên Chúa luôn kiên trì giúp chúng ta hoàn tât công việc chúng ta được trao phó. Nó cho chúng ta một sự ổn định lớn lao và cực kỳ tự tin vì biết rằng mình đang làm công việc của Thiên Chúa và Ngài là cộng tác viên, và dù con đường chúng ta đi quanh co tréo trở thế nào, cuối cùng chúng ta cũng sẽ thành công. 
___________________________________

Chương bảy  <=>  Chương chín



Comments

Popular posts from this blog

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Hãy cải thiện Giáo Hội từ gốc chứ đừng từ ngọn

Về phản ứng của Ban Biên Tập Công giáo Việt Nam