Làm sao biết được ai đúng ai sai?
Làm sao biết được ai đúng ai sai?
Kính thưa Quý Vị,
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường phải đối mặt
với những tình huống tranh chấp, hiểu lầm, hoặc mâu thuẫn giữa hai hay nhiều
người. Điều khó khăn là: ta không phải lúc nào cũng có đầy đủ bằng chứng để xác
định ai đúng ai sai một cách tuyệt đối. Không có đủ bằng chứng thì làm sao biết
được ai đúng ai sai? Vấn đề cụ thể mà rất nhiều người muốn xác minh, đó là có
hai câu hỏi mà Linh mục Nguyễn Hữu Lễ muốn làm sáng tỏ. Đó là: có thật là Giám
mục Nguyễn Hữu Long đã thật sự không cho phép Linh mục Đặng Hữu Nam đi chữa
bệnh trong trường hợp khẩn cấp không, và có thật là Giám mục Long đã đối xử
thiếu tình người với Linh mục Nam hay không. Linh mục Lễ đã phỏng vấn cả hai
người qua zoom, nhưng cả hai đều nói mình không có lỗi mà đổ hết lỗi cho người
kia.
Trước tình huống đó thì Linh mục Lễ cũng chẳng kết luận
được gì, và vấn đề chẳng hề sáng tỏ thêm được chút nào. Chắc chắn ngoài hai
đương sự ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết được ai đúng ai sai, ai nói thật ai nói
sai. Để phần nào giúp cho những vị có thẩm quyền xử lý sự việc này, và giúp cho
những ai muốn tìm hiểu, tôi xin góp một số suy nghĩ của tôi về vấn đề này.
Trước hết, tôi phải xác định rằng tôi hoàn toàn là
người đứng ngoài cuộc, và không có trách nhiệm hay thẩm quyền để phán đoán đúng
sai trong sự việc này. Tôi chỉ có thể đưa ra một số những nguyên tắc để
phán đoán đúng sai theo lương tri tự nhiên mà Thiên Chúa ban cho mỗi
người ai cũng có, tiếng Anh gọi là common sense mà tôi tạm dịch là nhận
thức chung. Đồng thời tôi cũng hạn chế tính chính xác khi áp dụng những
nguyên tắc trên ở mức xác xuất (probability) cao nhất có thể trong giới hạn của
nó thôi. Nói khác đi, ta chỉ có thể suy luận theo xác suất cao, tức là
dựa vào những sự kiện đã biết, những hành vi đã xảy ra, để đưa ra phán đoán hợp
lý nhất, dù không thể chắc chắn 100%. Chuyện kết luận thế nào là tùy phán đoán
riêng của mỗi người, ta nên tôn trọng suy nghĩ của nhau.
1) Bản chất của suy luận xác suất:
Suy luận xác suất không phải là phỏng đoán tùy tiện. Nó
là một quá trình logic, dựa trên: những dữ kiện đã biết, những mẫu hành vi lặp
lại, những động cơ có thể có, những phản ứng khi bị chất vấn, và độ tin cậy của
từng người liên quan. Quá trình logic này không có khả năng giúp ta có
được «chân
lý tuyệt đối», nhưng chỉ có thể cho chúng ta «khả năng
đúng ở mức tương đối cao» thôi.
Để có được «khả
năng đúng ở mức tương đối cao» ấy, người ta phải dựa trên một số nguyên tắc
2) Những nguyên tắc suy luận theo xác suất:
a. Xét theo lương tâm: Một người chủ trương phải hành động theo lương tâm bất chấp phải trả giá
cao cho việc làm ấy bao giờ cũng đáng tin hơn người không dám làm theo lương
tâm khi gặp khó khăn. Chắc chắn đây là nguyên tắc quan trọng và giá trị nhất.
Chẳng hạn người dám làm theo lương tâm khi lương tâm đòi buộc bất chấp phải hy
sinh cả mạng sống, hay vấn đề an ninh, hoặc phải chấp nhận mọi khó khăn xảy đến
thì người ấy thường sẽ không làm gì trái với lương tâm vì những
lợi lộc nhỏ nhoi hay vì phải đối phó với những khó khăn nhỏ hơn. Trái lại,
người chỉ vì phải đối phó với một khó khăn tương đối nhỏ mà đã sẵn sàng làm
trái với lương tâm mình, thì khó mà tin tưởng được người ấy sẽ làm theo lương
tâm khi phải đối phó với những khó khăn lớn hơn.
b. Có bằng chứng cho điều mình quả quyết: Người sẵn sàng đưa
ra bằng chứng, và bằng chứng đó có nhân chứng sẵn sàng xác nhận, thì lời nói
của người ấy đáng tin. Còn người chỉ xác quyết dù rất mạnh nhưng không có bằng
chứng, thì không đáng tin lắm.
c. «Vâng lời Thiên
Chúa hơn vâng lời người phàm»: Đây là tiêu chuẩn của các môn đệ Chúa Giêsu, họ bị các bề trên trong tôn
giáo của mình là Thượng Hội đồng Tôn giáo Do Thái nghiêm cấm các ông không được
rao giảng về Đức Giêsu nữa. Nhưng các ông nói: «Chúng tôi phải vâng lời
Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5:29). Như vậy, ai sẵn sàng tuân
theo lệnh truyền của Thiên Chúa hơn lệnh của người phàm, thì đáng tin hơn người
sẵn sàng vâng lời người phàm hơn vâng lời Thiên Chúa, nhất là khi người phàm ấy
là người đối nghịch với Thiên Chúa.
d. Xét những hành vi lặp lại: Nếu một người trong quá khứ đã từng nhiều lần nói dối, trốn tránh trách
nhiệm, hoặc gây hại cho người khác, thì xác suất họ tiếp tục làm những điều sai
trái ấy trong hiện tại thường là khá cao. Chẳng hạn, một người
từng đổ lỗi hay chối tội nhiều lần trong quá khứ, thì xác suất họ tiếp tục đổ
lỗi hay chối tội trong trường hợp hiện tại sẽ là cao.
e. Phản ứng khi bị chất vấn: Người có lỗi thường có phản ứng phòng thủ, tìm cách né tránh, không trả
lời thẳng hoặc tìm cách chuyển hướng suy nghĩ của người nghe. Người không có
lỗi thì thường bình tĩnh, sẵn sàng đối chất, trả lời rõ ràng, không né tránh
bất cứ điều gì. Chẳng hạn nếu A có lỗi thì sẽ rất ngại phải đối chất với B và
với công chúng, và rất ngại phải đưa ra bằng chứng.
f. Tương quan giữa lời nói và hành vi: Người mà lời nói trong trường hợp hiện tại phù hợp với những lời nói và hành
vi trước đó, thì xác suất đúng sẽ cao. Nếu không phù hợp thì ta nên nghi ngờ.
Chẳng hạn ta thấy A luôn luôn trung thực, lời nói thường đi đôi với việc làm,
nếu A nói «tôi không làm điều ấy»,
thì hầu chắc A nói đúng. Nếu A từng nói dối, từng phủ nhận sự kiện nhiều lần,
mà bây giờ nói «tôi nói thật đấy, xin hãy tin tôi», thì câu nói ấy không đáng tin.
g. Độ tin cậy tích lũy: Người có uy tín, hễ nói thì giữ lời, và được người khác tin tưởng trong
nhiều tình huống thì xác suất họ đúng cao hơn. Chẳng hạn, nếu A là người được
nhiều người tin cậy trong cộng đồng, có uy tín vì trong quá khứ đã dám nói thật
nhiều lần dù gặp khó khăn hay bị đe dọa, thì lời nói của A là có trọng lượng.
Ngược lại, người ít uy tín vì nói không giữ lời, hay đã bị mang tiếng là nói
sai sự thật, thì lời nói của họ không đáng tin.
h. Nguyên tắc lợi ích chung hay cá
nhân: Người hành động vì lợi ích chung thường
có xác suất đúng cao hơn người hành động vì lợi ích cá nhân. Nếu một người sẵn
sàng chịu thiệt để bảo vệ sự thật, thì lời nói của họ đáng tin hơn.
Những nguyên tắc hay tiêu chuẩn trên, xin nhắc lại một
lần nữa, dù rất giá trị, nhưng không tuyệt đối, nghĩa là không
thể dựa vào đó để chắc chắn 100%, mà mức độ đúng chỉ được khoảng 70% đến 90%
thôi. Vì thế, trong những trường hợp nghiêm trọng, chúng ta cần thận trọng khi
xác quyết.
3) Những tiêu chuẩn sai lầm để đánh giá đúng
sai:
Trước khi trình bày mục này, tôi cần nêu lên một nguyên lý quan trọng mà rất ít người ý thức, đó là: «Người ta chỉ phạm tội khi bị cám dỗ mà thôi!» Nếu không bị cám dỗ thì ai cũng vô tội và thánh thiện cả. Nếu bà Eva không bị cám dỗ ăn trái cấm, chắc chắn chẳng bao giờ bà ấy làm điều ấy cả. Người ta chỉ chứng minh được mình là người tốt, là người có bản lãnh khi họ bị thử thách. Nguyễn Công Trứ đã nói lên điều đó qua câu: «Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai». Anh hùng hào kiệt chỉ lộ diện khi họ làm được những điều rất tốt mà không mấy ai làm được. Do đó, ta không thể dựa vào tình trạng vô tội của một người nếu chưa được thử thách để có thể kết luận đó là một người tốt được.
Có người đã minh họa sự thật đó qua câu
chuyện: mấy con chó đang đùa giỡn với nhau rất hòa thuận, nhưng khi có người
vứt cho chúng một khúc xương, thế là những con chó dễ thương ấy bắt đầu tranh
giành và cắn nhau. Tương tự như vậy, có nhiều gia đình anh em yêu thương nhau
lắm, dễ dàng giúp đỡ nhau khiến ai cũng khen. Nhưng khi cha mẹ chết để lại một
gia tài mà không có di chúc rõ ràng, thì anh em bắt đầu chia rẽ, kiện cáo nhau,
coi nhau như kẻ thù.
Những người từng bị tù về kể lại: nhà tù là nơi giúp
con người bộc lộ được hết bản tính đích thật của mình. Rất nhiều người được người
đời đánh giá là đạo đức cao, khi bị tù, có người vẫn giữ được y nguyên phẩm
chất đó, nhưng khá nhiều người đã biểu lộ rõ rệt bản tính ích kỷ, sẵn sàng làm
chuyện bất công. Cũng vậy, nhờ Việt Nam biến thành một nhà tù lớn mà nhiều
người đã bộc lộ ra bản chất đích thật của mình, hoặc cao thượng, hoặc tầm
thường. Vì thế, để khỏi bị sai lầm khi phán đoán bản chất của một người, hay khi
cần phán đoán ai đúng ai sai, chúng ta cần tránh những tiêu chuẩn không chỉnh
về mặt logic.
Thật vậy, để phán đoán đúng sai, chúng ta rất dễ sai
lầm khi bị chi phối bởi cảm xúc, ấn tượng cá nhân, định kiến xã hội, hoặc dựa
vào những tiêu chuẩn hay nguyên tắc không chuẩn. Những tiêu chuẩn này tuy không
đáng tin cậy nhưng lại rất phổ biến. Vì thế, tôi nghĩ cũng nên đưa ra đây để
mọi người biết mà tránh. Những nguyên tắc suy luận theo xác xuất ở phần đầu,
chỉ áp dụng đúng trong đa số trường hợp, chẳng hạn 70-90% thôi. Chúng ta dễ đi
vào sai lầm khi chúng ta tuyệt đối hóa những nguyên tắc kể trên. Và những tình huống hay ngụy
biện sau đây là những trường hợp rất dễ dẫn chúng ta đến sai lầm.
a. Tình huống vì tình thân: «Vì đó là người
thân của tôi, nên tôi phải bênh vực»: Rất nhiều người vì liên hệ thân tình với người có lỗi, mà trở nên rất dễ tin những gì người ấy nói. Và cho dù có biết người ấy nói sai, thì cũng đành phải bất
chấp sự thật, bất chấp công lý, mà phải nói sao có lợi cho người thân của mình. Chẳng
hạn, vì người ấy mẹ tôi, là bề trên của tôi, là người cùng tổ chức với tôi, v.v...
nên tôi tin người ấy, và dù tôi biết người ấy sai, tôi vẫn phải nói người ấy đúng. Nếu không như vậy
thì tình thân giữa tôi với họ sẽ mất.
b. Tình huống bị áp lực: «Tôi mà nói thật
thì nguy hiểm cho tôi»: Trong một chế độ độc
tài, hay trong một tổ chức có tính giáo điều, tôi thường tin những gì tôi được dạy từ hồi nhỏ. Và về sau, cho dù tôi có biết điều đó không đúng, thì tôi cũng ngại nói chính điều tôi nghĩ là đúng, vì như thế sẽ rất bất lợi cho tôi, tôi sẽ bị kết án, nên tôi phải nói giống như mọi người mặc
dù tôi biết nói như vậy là không đúng.
c. Ngụy biện cảm tính: «Người ấy dễ
thương, nên chắc là nói thật»: Điều sai lầm của nhiều người là không phân biệt giữa dễ thương và trung
thực. Trong xã hội, có những người bản tính không trung thực, nhưng lại tỏ
ra thật dễ thương dễ mến để được mọi người yêu thương, tín nhiệm. Chẳng hạn
những chàng sở khanh khi tán gái thường ăn nói dễ thương hơn người thật sự yêu
thương.
d. Ngụy biện từ thiện chí: «Người ấy đối
xử rất tốt với tôi, nên chắc là không có lỗi»: Đây là tiêu chuẩn mà ngay cả những người trí thức cũng mắc phảiVì thế, cần
phân biệt: Đối xử tốt với ta trong một số tình huống không có nghĩa người ấy
cũng luôn luôn đối xử tốt với mọi người. Việc đối xử tốt ấy không chứng minh
được người ấy vô tội trong mọi tình huống.
e. Ngụy biện từ số đông: «Ai cũng tin
người ấy, nên tôi chắc rằng người ấy đúng»: Sự đồng thuận xã hội là một chứng cứ tốt, nhưng không phải là bằng chứng
có giá trị chắc chắn.
f. Ngụy biện từ quá khứ: «Người ấy từng
làm việc tốt, nên lần này chắc không sai»: Tiêu chuẩn này giúp ta ý thức được tính tương đối của những nguyên tắc đã
nói ở phần đầu. Những người thường xuyên làm việc tốt không có nghĩa là họ
không bao giờ làm việc xấu.
g. Ngụy biện từ địa vị: «Người ấy là
người có học, có chức vụ, nên chắc không nói sai»: Trình độ hay địa vị không miễn trừ sai lầm hoặc gian dối.
4. Kết luận:
Cần
tỉnh táo trước những tiêu chuẩn cảm tính như dễ thương, quen biết, địa vị, hay
thiện chí, v.v... Những cảm tính ấy dễ khiến ta mất khách quan, mất sáng suốt
mà vô tình trở nên thiên vị, thiếu công bằng. Để phán đoán đúng sai một cách
hợp lý, ta cần tách biệt cảm xúc khỏi dữ kiện, và dùng tư duy logic, dù là theo
xác suất, để tiếp cận sự thật. Tuy nhiên, những nguyên tắc suy luận theo xác
xuất không bảo đảm đúng được 100%, chỉ nên tin tưởng từ 90% trở xuống thôi.
Trong đời thường, đã có biết bao trường hợp «tình ngay lý gian», mặc dù
xác xuất rất nhỏ, chỉ vì người kết án đã tuyệt đối hóa những nguyên tắc suy
luận theo xác xuất.
Nguyễn Chính Kết
Comments
Post a Comment