01 Đơn Côi


Chương một
Đơn Côi

Người bạn đầu tiên của tôi là người sống bên cạnh nhà tôi. Chúng tôi vừa làm bạn thì anh dọn nhà. Tôi mất anh và cảm thấy mất mát. Vì chỉ là bạn chơi, nên tôi không buồn lắm. Nhưng vì là người nhiều tình cảm, tôi yêu rất dễ dàng . Lúc lên bốn, tôi yêu mê mết một cô bé tên là Têma Chuy. Tôi nhớ cô bé cả ngày và chỉ mong đến lúc bãi trường ba giờ rưỡi chiều để đứng ở góc đường mà nhìn cô đi ngang qua với bạn bè. Tôi nghĩ rằng cô bé không biết có tôi ở đấy. Một ngày kia sau giờ bãi trường, cô đứng ở góc đường trò chuyện với bạn học, rồi lên xe buýt, còn các bạn của cô thì vẫy tay từ giả. Tôi cảm thấy sẽ không bao giờ gặp lại cô ta. Cô bé chẳng hề nhìn đến tôi và cũng không biết tôi đứng đó. Tim tôi đau nhói khi xe buýt lăn bánh.
Thế giới của tôi bị sụp đổ, nhưng tôi cũng không nói cho ai biết. Tôi ôm ấp nỗi đau thương cho riêng mình. Đau khổ triền miên. Các bạn khác đến rồi lại đi. Phải lâu lắm tôi mới quên được Têma. Cuộc sống thơ ấu của tôi thật là cô đơn. Tôi nhút nhát và không mở miệng được với người tôi yêu. Vì thế tôi sống trong một thế giới mộng tưởng. Mặc dù còn bé, tôi đã cảm thấy mình sống cô độc trong một thế giới mà mọi người đều xa lạ, và cũng không thể giữ được những người mình yêu thương. Bạn bè ra đi một cách dễ dàng. Đau đớn hơn nữa khi không biết rằng người mình yêu có yêu lại chăng? Tôi cảm thấy con người không có tình cảm. Người ta chỉ cười, chỉ nói, chỉ hài hước làm người khác cười, nhưng không có tình nghĩa gì với nhau.
Tôi thường nghĩ rằng mình lập dị. Nhưng lúc lớn lên và thấy nhiều người đau khổ, tôi mới ý thức rằng thế gian tràn đầy đau thương. Tôi không phải là người độc nhất cảm thấy cô độc trên quả địa cầu này. rồi ai cũng trải qua kinh nghiệm này trong đời sống. Bạn bè đến rồi lại đi, họ bước vào đời sống của bạn rồi lại bước ra. Những kẻ xa lạ chỉ kết bạn khi họ cần bạn, nhưng khi nhu cầu được thoả mãn thì họ ra đi. Nếu ai chân thành trong tình bằng hữu thì rất khó hiểu được điều này. Những người mà bạn yêu mến sẽ nán lại một thời gian cho đến khi họ không cần bạn nữa. Nếu khi cuộc đời ngã về chiều mà bạn còn có một người bạn kiên nhẫn trải qua những thăng trầm của cuộc sống và còn ở lại với bạn, thì bạn thật là may mắn. Nhưng phần lớn bạn phải đi một mình, rất là cô đơn.
Tôi không cảm thấy kinh nghiệm bị cô lập này tai hại lắm và có ảnh hưởng không tốt cho đời tôi. Tôi nhắc đến nó để làm tiền đề cho quá trình tâm lý và linh đạo của tôi. Tôi nghĩ đó là số phận của con người. Tất cả chúng ta, dù có hoạt bát cách mấy đi nữa, vẫn còn rất là cô đơn, rất là đơn độc, không thể nào chia sẻ với ai những bí mật sâu xa của tâm hồn. Cái đau khổ về tình cảm và tâm lý đã trở thành một động lực mạnh mẽ uốn nắn đời tôi, mặc dù tôi không ý thức lắm. Đối với một số người, đau khổ và va chạm đã làm họ trở thành cay đắng và yếm thế. Đối với những người khác thì đấy là dịp họ nhìn tường tận chính bản thân và đời sống để tìm hiểu ý nghĩa của những biến cố không đâu và hay thay đổi.
Tôi rất may mắn được biết Thiên Chúa ngay từ lúc còn bé. Mẹ tôi đọc kinh với tôi mỗi đêm, và cho tôi ý thức rằng Đức Giêsu thương yêu tôi. Điều này có ảnh hưởng lâu dài. Tôi không biết cuộc đời tôi sẽ ra thế nào nếu tôi không có được những kinh nghiệm như thế ở tuổi thơ ấu. Vì biết Thiên Chúa là một người bạn tốt nên tôi có thể chia sẻ những bí mật đời tôi với Ngài. Khi rước lễ lần đầu, tôi rất cảm động khi biết rằng từ đây Giêsu là bạn lòng của tôi. Mỗi sáng tôi đi lễ một mình để rước Mình Thánh và ngồi lại trong nhà thờ mà nghĩ đến Thiên Chúa. Ngài có thực đối với tôi, Ngài là một nhân vật sống động. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài như thể linh hồn tôi đang sôi sục trong tôi. Đấy không phải chỉ là cảm giác. Đấy không phải là nhu cầu cần có một người bạn để lấp khoảng trống trong tuổi thơ ấu cô đơn. Con người tôi tràn đầy Ngài và tôi biết Ngài ở với tôi và ảnh hưởng đời sống của tôi một cách sâu xa. Khi tôi đau khổ, tôi nói với Ngài hay mẹ Ngài. Tôi biết rằng Đức Giêsu nghe tôi mặc dù Ngài không làm gì hiển nhiên để đáp lại. Tôi biết Ngài nghe tôi và tôi biết Ngài đang ở bên tôi để ban sức mạnh cho tôi. Ngài đã nói rằng ai chấp nhận Ngài thì Ngài và Cha của Ngài sẽ cùng đến và sống với họ.
Tôi nghĩ rằng có lẽ biết Thiên Chúa vào lúc mình còn bé như thế không phải là chuyện thông thường, nhưng tôi cảm tạ vì được như thế. Tôi phải mất một thời gian lâu hơn để hiểu biết Đức Giêsu. Tôi cân nhắc những biến cố đời tôi và những kinh nghiệm sống trong tình bằng hữu với Ngài lúc tôi thơ ấu, lớn lên và trưởng thành. Trong những năm thần học, tôi dần dần hiểu được môn đó qua kinh nghiệm sống với Đức Giêsu. Nhờ đó mà tôi đã hiểu được những ý niệm lạnh nhạt chạm trổ tinh vi của môn thần học và biến chúng thành những ý tưởng sống động như Đức Giêsu nghĩ về cuộc sống. Mặc dù thần học là môn học lạnh nhạt và khô khan, nhưng đối với tôi đó là phương cách để tìm hiểu ý muốn của Thiên Chúa, để phát triển ý thức chân thực về Ngài, để ý thức rằng Thiên Chúa không thể được định nghĩa hay hạn chế trong những ý niệm của loài người. Khi đào sâu Kinh Thánh tôi cũng thấy rằng Thiên Chúa có một ý niệm về luân lý một cách cởi mở hơn là nền luân lý hạn hẹp và cứng nhắc của các nhà thần học luân lý hoặc của chính cả Giáo hội. Điều này cũng ảnh hưởng sâu xa đến việc tôi tiếp xúc với dân chúng sau này khi họ đến với tôi với những vấn đề tâm lý trầm trọng. Tôi luôn luôn nhìn thấy nhiều cái tốt cùng với sự yếu đuối nơi con người họ. Tôi học đối xử với họ như là người, chứ không phải là tội nhân, như cách thức Đức Giêsu đối xử với thiếu phụ Samaritanô là người đã có năm đời chồng và không quan ngại đến việc cưới người thứ năm chị đang chung sống. Các Giáo hội không đối xử với dân chúng như thế. Những người có tội thường bị xa lánh trong các xứ đạo của chúng ta và không được phép tham gia vào đời sống của Giáo hội. Chúng ta không cảm thấy thoải mái với những người có tội, và cũng không làm cho họ cảm thấy thoải mái khi không cho họ tham gia các công tác phụng vụ dành cho những người bề ngoài có đời sống đúng tiêu chuẩn của Giáo hội. Trong khi đó, Đức Giêsu thì cởi mở với những người mang nhiều khuyết điểm, và nhìn đến toàn diện đời sống của họ, thấy cái tốt nhiều hơn là cái xấu. Ngài chọn một người thu thuế, một thầy Lêvi có tiếng là xấu, không chỉ để làm môn đệ nhưng là làm tông đồ của Ngài. Chính Ngài cũng bị mang tiếng tiệc tùng ở nhà những người bị tuyệt thông, bởi vì Ngài là Vị Chủ Chăn tốt luôn luôn tìm kiếm những con chiên bị thương tích và đau khổ. Còn chúng ta thì bảo họ không được đến gần Đức Giêsu vì họ không xứng đáng.
Chính vì thế mà cần phải hiểu rõ Đức Giêsu để có thể chia sẻ cái viễn tượng của Ngài về Thiên Chúa, và việc Ngài hiểu bản tính nhân loại thế nào để có thể liên lạc với Thiên Chúa như là một trong những thụ tạo của Ngài. Nếu Kitô giáo chỉ là một hệ thống thần học, nó sẽ sản xuất một giai cấp ưu tú rất thông thái nhưng đời sống của họ lại không có gì giống Đức Giêsu. Trong một cuộc vận động tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, một ứng cử viên rất thông thạo về thần học đã thốt ra những lời lăng mạ cực kỳ vô đạo để chế riễu những người đồng tình luyến ái và vô gia cư. Ứng cử viên đó không có chút gì là tế nhị và từ tâm, nó chứng tỏ một đời sống tinh thần rỗng tuếch làm mọi người ngỡ ngàng.
Đáng tiếc, bao nhiêu nghị lực của các giáo hội đã được dùng để củng cố địa vị thần học và xã hội của mình đối với các giáo hội khác và đối với thế tục, trong khi mục đích căn bản của tôn giáo là cổ võ và xây dựng đời sống tinh thần của tín đồ thì không được quan tâm đến. Chính vì thế mà có nhiều tín hữu Kitô giáo đang lang thang cùng khắp thế giới để tìm đường lối đưa đến Thiên Chúa, trong khi các nhà chuyên môn về tôn giáo và các nhà truyền đạo thì lại dấn thân tranh đấu cho những vấn đề hoàn vũ. Lương tâm của các lãnh đạo tôn giáo và của các nhân viên truyền thông thì rất nhạy cảm đến những vấn đề đói khát vật chất của dân chúng trên thế giới, điều này thật đáng khen, nhưng thường thì họ rất là vô tình đối với sự đói khát tinh thần của những người láng giềng mà họ trực tiếp có trách nhiệm. Tôi rất ít nghe các giáo sĩ nói về tu đức, hoặc dạy cho giáo dân cách cầu nguyện và phát triển sự sống thân mật với Thiên Chúa. Có thể các vị không biết làm thế nào. Có thể đó không phải là công việc ưu tiên đối với nhiều giáo sĩ. Chúng ta dạy thần học, giải thích Thánh Kinh, tổ chức phụng vụ đẹp đẽ, bàn thảo những vấn đề xã hội, xuống đường biểu tình. Đó là những hình thức đẹp và rất thách thức. Tuy nhiên thế giới thần linh mới là thực chất của tôn giáo, nhưng lại thiếu người hướng dẫn chuyên môn. Trên con đường ngoằn ngoèo kinh hãi có nhiều hố sâu và bãi mìn này, thì các giáo sĩ lại hiếm hoi cung cấp những phương tiện để dân chúng đạt đến Thiên Chúa.
Điều này làm tôi rất ngỡ ngàng khi đến một quốc gia mà đa số dân chúng theo Phật giáo. Ngày nọ lúc nghỉ ngơi trong một khách sạn, tôi vớ được một quyển sách về đức Phật. Sau khi mô tả cách tổng quát về đời sống của đức Phật, quyển sách trình bày đời sống của ngài và những nguyên tắc sống tinh thần cách lành mạnh. Phần còn lại của quyển sách mô tả tỉ mỉ cách thức đức Phật đạt đến thị kiến về đời sống, cũng như những tín đồ theo gương ngài đã tìm được an bình trong tâm hồn thế nào. Chúng ta không làm như vậy với Đức Giêsu. Chúng ta có hàng loạt sách tranh luận có Đức Giêsu không, Ngài có thực trong lịch sử không hay chỉ là một huyền thoại. Chúng ta có biết bao tài liệu về những vấn đề chuyên môn, nhưng lại không khai thác đường lối của Đức Giêsu đưa đến hạnh phúc và bình an, hoặc tìm hiểu Ngài nghĩ về Thiên Chúa và tạo vật thế nào, hoặc Ngài nghĩ thế nào về cách chúng ta liên hệ với Thiên Chúa, hoặc thái độ của Ngài đối với sự yếu đuối của nhân loại thế nào. Tìm hiểu những điều đó có thể giúp chúng ta tìm được an bình nội tâm và ý nghĩa của đời sống. Thực vậy, không có chủng viện nào ngày nay dạy về Đức Giêsu ngoại trừ những môn về Kitô học mà nhiều chủng viện nổi tiếng lại dạy như là những môn được tự do lựa chọn.
Tôi được nghe nói nhiều về những nhu cầu tinh thần của dân chúng khi sách Giôsê được nổi tiếng. Người ta thường nói rằng dân chúng lơ là với tôn giáo, nhưng tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nghe thấy phản ứng chung của dân chúng đới với Giôsê, không phải chỉ những người Công giáo và Êpicôpa, Lutêran và Prêbytêrô, nhưng cả những người Báptít, Phêntêcốt, Êvangêlican, Do thái, Hồi Giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo, Sikh, và không chỉ những người trưởng thành, nhưng cả trẻ em chín mười tuổi. Có những linh mục Công giáo viết thư cám ơn tôi và nói rằng Giôsê đã giữ các vị trong chức linh mục. Các giáo sĩ Báptít khóc mà nói với tôi rằng Giôsê đã cất nhẹ gánh cuộc đời của các ông và cho các ông hiểu được Đức Giêsu một cách đẹp đẽ hơn. Những nguời Dothái viết thư cho tôi nói rằng họ đọc Giôsê và liên lạc mật thiết với Đức Giêsu, và muốn theo bước chân ngài. Những người thuộc các tôn giáo khác cũng có phản ứng tương tự, và cả những người không theo tôn giáo nào. Điều này nói lên một cách hùng hồn rằng dân chúng đã mệt mỏi với tôn giáo, nhưng họ lại khao khát liên lạc mật thiết với Thiên Chúa để tìm một viễn tượng mới cho cuộc sống và để chữa lành những vết thương lòng lâu năm mà vui vẻ sống.
Dân chúng khao khát đời sống tinh thần. Trong hai muơi năm qua, nguời Tây Phương đến vùng Viễn Đông để tìm hạnh phúc nơi những tôn giáo ở đó. Ngược lại, những người Ấn độ giáo và Phật giáo từ Phương Đông thì đến Phương Tây để tìm ý nghĩa đời sống. Một nhóm người Ấn độ giáo liên lạc với tôi sau khi đọc sách Giôsê và yêu cầu tôi hướng dẫn về đạo cho họ. Họ bảo rằng họ tìm được an bình khi đọc Giôsê và muốn học hỏi thêm về đời sống của Đức Giêsu. Họ yêu cầu tôi dạy họ tìm an bình và hạnh phúc và cách thức liên lạc với Thiên Chúa. Không phải chỉ có người Tây Phương mới tìm ý nghĩa của đời sống và cách thức liên lạc với Thiên Chúa, nhưng đây là thái độ chung của loài người. Và cũng chính vì đó mà Chúa Giêsu đến trong trần gian để dạy chúng ta phải làm thế nào. «Ta là đường, là chân lý và là sự sống», Ngài bảo. Nhưng đó lại là điều chúng ta không để ý đến: Kitô giáo là con đường.
Điều đáng lo ngại cho tôn giáo của chúng ta ngày nay là hàng giáo sĩ không thấy rằng dân chúng đang khao khát đời sống tinh thần, hoặc các vị không quen với đường lối của Đức Giêsu và truyền thống về thần bí và khổ hạnh của Kitô giáo qua bao nhiêu thế kỷ. Đó là đạo và là phương cách áp dụng hay nhất những điều Đức Giêsu dạy, nhưng chúng ta lại không dạy cho dân chúng. Chính lúc Phong Trào Tin Lành đang thịnh hành nhất thì thánh Têrêsa thành Avila và Gioan Thánh Giá, Inhaxiô thành Lôdôla và nhiều thánh nhân khác đã phác hoạ ra con đường nên thánh bằng cách kết hiệp thần bí với Thiên Chúa một cách rất thực tiễn. Cả đến ngày nay phương cách đó vẫn còn được dạy trong các lớp thần học và tu đức. Đáng tiếc là giáo dân không được dạy điều đó trong nhà thờ, họ cũng không biết có đường lối thánh thiện đó, vì thế mà họ đi tìm tôn giáo khác.
Có thể cha mẹ cũng dạy đạo cho trẻ em. Các Giáo hội cũng vậy. Nhưng đó không phải là linh đạo (spirituality). Linh đạo cần được dạy từ bé. Trẻ em phải được dạy về Thiên Chúa một cách đơn sơ và trìu mến để chúng biết Ngài là một người Cha nhân từ và yêu thương đã dựng nên chúng, mặc dù không hoàn toàn nhưng cũng ban cho chúng đủ sức để lớn lên trong tình yêu của Ngài. Chúng cũng phải được dạy về Đức Giêsu và đời sống của Ngài, Ngài sống làm sao và Ngài yêu thương dân chúng thế nào. Chúng cũng phải được dạy về Đức Giêsu như là một Chủ Chăn lo lắng đến những con chiên bị thương tích và đau khổ, để chúng biết chạy đến với Ngài khi chúng gặp rắc rối và khi chúng sa ngã và lầm lỗi.
Thường thì linh đạo không phải là việc của trẻ em. Đời sống tinh thần cũng phát triển như mọi phương diện khác trong đời sống. Nó trải qua từng giai đoạn. Nó phát triển mạnh sau khi con nguời gặp khủng hoảng. Bắt trẻ em phải học linh đạo khi chúng chưa sẵn sàng là trái tự nhiên và làm cho chúng không quan tâm đến tôn giáo và Thiên Chúa. Chúng ta có thể dạy cho trẻ em về Thiên Chúa và gieo nơi chúng hạt giống sẽ nẩy mầm và lớn lên khi thời gian đến, nhưng hoạt động tu đức không phải là điều giới trẻ ưa thích. Thực vậy, nó có thể gây tai hại khi đòi hỏi quá mức nơi trẻ em khi chúng còn bé quá để hiểu được linh đạo là gì. Có nhiều bạn bè của tôi đã quá nhiệt thành bắt con cái phải học linh đạo làm chúng đâm ra chán ngán đạo. Vì thế khi lớn lên chúng không chịu được nữa và chỉ đi đến nhà thờ khi bị la rầy. Những đứa lớn thì không bao giờ đến nhà thờ nữa.
Một lúc nào đó người ta cảm thấy cần Thiên Chúa và cần phải có đời sống tinh thần. Tuy nhiên linh đạo khác với việc hành đạo và làm các việc đạo đức. Các việc đạo đức này chỉ là mô phỏng linh đạo. Nhưng tiếc thay, nhiều người lại nghĩ rằng họ sống gần gũi với Thiên Chúa khi làm các việc đạo đức. Đó không phải là linh đạo. Họ được tiếng là đạo đức. Đức Giêsu sống ba mươi năm ở Nadarét, và có lẽ bạn nghĩ rằng dân chúng trong vùng đó phải cảm phục sự thánh thiện của Ngài. Nhưng lạ thay, họ phải ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu hoạt động công khai và rao giảng Tin Mừng. «Anh ta học điều đó ở đâu? Anh ta không phải là con bác thợ mộc sao?». Rõ ràng là sự thánh thiện của Ngài không đánh động dân chúng lắm. Chắc bạn thắc mắc rằng làm sao Đức Giêsu có thể che dấu linh đạo của Ngài trong từng ấy năm, cả đến bạn bè của Ngài cũng bỡ ngỡ khi thấy Ngài quan tâm đến tôn giáo. Đức Giêsu không sống ra dáng đạo đức đối với những người sống gần gũi Ngài, đó là vì Ngài sống đạo đức thật, không phô trương. Ngài bảo các tông đồ: «Khi cầu nguyện, anh em hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin Cha của anh em nơi kín đáo và Cha của anh em là đấng biết mọi việc kín đáo sẽ nghe anh em» . Trong một dịp khác Ngài bảo các môn đệ rằng họ không nên giống như các kinh sư và người Pharisêu là những kẻ ưa đọc kinh dài dòng và thích được người ta thấy họ cầu nguyện nơi công cộng. «Đừng làm việc thiện để được người ta thấy. Ai làm như vậy thì đã được phần thưởng rồi. » Những lời dạy như thế cho thấy Đức Giêsu từ đâu đến và lối sống của Ngài thế nào.
Cái lầm lẫn mà nhiều người mắc phải là khi cố gắng nên thánh đã miệt mài làm nhiều việc đạo đức, dự nhiều nghi lễ, vì nghĩ rằng càng làm nhiều thì càng thánh thiện. Nhưng linh đạo không phải như vậy. Đời sống tinh thần chỉ phát triển cách tiệm tiến, không thấy được, rất là âm thầm. Ra sức làm nhiều việc thiện cho tha nhân và làm nhiều việc đạo đức không làm cho chúng ta nên thánh thiện. Nếu không cẩn thận, những công việc đó sẽ làm cho chúng ta suy nhược và thêm gánh nặng cho đời sống đã quá bận rộn của chúng ta.
Linh đạo thật thì khởi sự bằng cách tập tễnh tìm kiếm Thiên Chúa nhưng rồi với thời gian sẽ tự tin. Lúc đầu có thể tìm Ngài vì tuyệt vọng. Nhưng không sao. Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để lôi kéo chúng ta đến với ngài. Hoặc là chính chúng ta cảm thấy cần gần gũi Ngài. Vì lý do nào đi nữa, Thiên Chúa cũng gọi chúng ta sống thân mật với Ngài. Đức Giêsu dạy phải cư xử thế nào khi liên lạc với Cha của Ngài: đó là phải tín cẩn như trẻ em. Điều này không bắt buộc, nhưng Ngài chỉ cố gắng dạy chúng ta phải liên lạc mật thiết với Cha của Ngài là đấng Ngài biết rõ. «Tại sao anh chị phải lo lắng thái quá?», Ngài nói với dân chúng thế đó. «Hãy nhìn chim trời. Chúng không gieo, không gặt và không làm kho tích trữ. Có Cha của anh chị trên trời lo cho chúng. Anh chị còn quí giá hơn các đàn chim, nhưng anh chị lại lo lắng, như thể anh chị không có Cha trên trời. Đừng lo. Cha anh chị trên trời biết anh chị cần gì, trước khi anh chị xin Ngài. »
Đó là bước đầu tiên của linh đạo, là cảm thấy cần có Thiên Chúa trong đời sống và đặt mình nơi tay Ngài với lòng đầy tín cẩn, tin ở tình yêu êm ái của Cha chúng ta. Chúng ta có thể cảm thấy khó khăn, bởi vì ai cũng thấy mình yếu đuối và không xứng đáng với lòng từ ái của Thiên Chúa. Nhưng cũng chính đó cho thấy tình yêu của Thiên Chúa thật là tốt đẹp. Không phải vì ngài thấy chúng ta tốt đẹp, nhưng là vì Ngài yêu thương và nhân hậu đối với chúng ta, mặc dù chúng ta yếu hèn tội lỗi. Đám dân mà Đức Giêsu giảng dạy khi Ngài nói về chim trời là những người bình dân, tội lỗi như chúng ta nếu bạn muốn nghĩ thế, mặc dù Đức Giêsu không gọi họ như thế. Đức Giêsu gọi dân chúng là con cái của Thiên Chúa, là đàn chiên nhỏ bé. Thật là cảm động trong cách thế Đức Giêsu ngỏ lời với dân chúng. Ngài bảo đảm với họ rằng Thiên Chúa lo lắng đến họ mặc dù Ngài biết họ có nhiều khuyết điểm trong đời sống. Vì thế, khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc với Thiên Chúa, chúng ta nên vững tâm rằng ngài sẽ mở lòng tiếp đón chúng ta. Chúng ta không sợ phải phiền hà ngài. Mặc cho đời sống dĩ vãng và sự yếu hèn của chúng ta, ngài rất hài lòng khi chúng ta đến với Ngài. Giống như người cha nhân hậu đối với đứa con hoang đàng, Ngài sẽ giang tay tiếp đón chúng ta và sẵn sàng làm bạn và vô cùng nhân hậu với chúng ta. Ngài tha thứ tất cả, Ngài đổi mới tất cả. Mặc dù chúng ta đầy tràn tội lỗi, Ngài sẽ rửa sạch chúng ta và làm cho chúng ta trắng như tuyết, qua phép rửa, hoặc làm sống lại đời sống mà phép rửa ban cho để giao hoà lại với Ngài.

___________________________________

Nội dung  <=>  Chương hai



Comments

Popular posts from this blog

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Hãy cải thiện Giáo Hội từ gốc chứ đừng từ ngọn

Về phản ứng của Ban Biên Tập Công giáo Việt Nam