18 Giôsê - Chương mười tám


CHƯƠNG MƯỜI TÁM

Giôsê thức dậy lúc bốn giờ ba mươi, đúng như dự định và không cần đồng hồ đánh thức. Cha Phát và giáo sĩ Dô An đến lúc năm giờ ba mươi, ngay sau khi Giôsê ăn điểm tâm xong. Họ uống cà phê với chàng, trao đổi vài câu chuyện hài hước, và ra đi. Giôsê nhìn quanh quẩn căn nhà, lòng buồn man mác. Chàng lấy cái búa và cái đục trên bàn tặng cha Phát, và một bộ khác tặng giáo sĩ Dô An. Chàng xách một gói nhỏ đựng đồ của chàng và nhìn qua cửa sổ phía sau ra cánh đồng cỏ. Qua các kẻ hở của hàng rào gỗ, chàng thấy ba còn cừu đang nhìn vào vườn nhà. Chàng đi ra cửa sau, bước qua giậu và sờ mấy con cừu, âu yếm nắm tai chúng như chàng thường làm, rồi đi lại vào nhà và ra cửa trước với hai ông bạn. Họ thấy nước mắt chảy xuống má chàng, nhưng không nói gì cả.
Chiếc xe yên lặng lăn bánh ra khỏi làng. Hầu hết dân chúng còn đang ngủ. Những tia nắng vàng của mặt trời hực đỏ dọi qua cây cối như những luồng điện sáng. Trời hơi lạnh. Giôsê mặc áo ấm. Thật là một buổi sáng tốt để lái xe đi xa. Họ lái theo những con đường miền quê đến cổng đóng tiền. Không mấy chốc họ đã đến trạm tính tiền.
«Hôm nay cha đi làm sớm?», người gác trạm hỏi trong khi đưa vé cho cha Phát.
«Vâng, phải đi xa», cha Phát ngái ngủ trả lời.
Con đường vào phố chính xem ra không xa mấy. Một khi đã hoàn toàn tỉnh ngủ, họ nói chuyện suốt đường. Họ dừng lại ở trạm xăng gần lối cuối cùng bỏ xa lộ để lấy xăng và uống ly cà phê với bánh ngọt. Giao thông trong phố chưa bận rộn lắm, họ còn nhiều thì giờ khi đến bến tàu. Chiếc tàu đã sẵn sàng rời bến. Đó là một chiếc tàu cũ nhưng xem được. Khi ba người đi cầu lên boong tàu, ông thuyền trưởng chào họ. Ông là người vui tính, đẹp trai, và nói tiếng Anh với giọng Ý Đại Lợi chải chuốt. Ông xem đẹp đẽ trong bộ hải phục. Ông nghĩ Giôsê là khách có hai giáo sĩ tiễn chân, nên hỏi giấy tờ của chàng. Giôsê móc túi lấy chúng ra đưa cho ông. Ông xem giấy tờ và chào Giôsê cách lạnh nhạt, rồi gọi một người phụ tàu đưa Giôsê đến phòng của chàng. Cha Phát và giáo sĩ Dô An đi theo. Họ đi xuống bực thang và đi dọc hành lang. Cái phòng đứng một mình. Đó là cái phòng duy nhất còn lại khi giám mục giàn xếp. Phòng thường không được dùng. Người phụ tàu mở cửa phòng và để mọi người bước vào. Phòng tuy nhỏ nhưng sạch sẽ và mới sơn. Có một cái giường ngủ, một rương đựng quần áo và một phòng tắm. Họ cười khi thấy căn phòng xa xí của Giôsê, và cùng nhau lên lại boong tàu.
Đã gần giờ tàu nhổ neo, vì thế cha Phát và giáo sĩ Dô An từ giã Giôsê. Đó là một buổi chia tay buồn bã đối với họ. Họ đã trở nên gần gũi nhau và có những quan niệm sống giống nhau. Cha Phát nói với Giôsê rằng cha sẽ cầu nguyện cho chàng. Giáo sĩ Dô An cũng nói như vậy. Giôsê bảo họ hãy thành thực với chính mình và theo đuổi điều mình tin tưởng, và đừng thất vọng khi người ta không hiểu mình. Những vật quí giá thường hiếm có. Đối với tư tưởng cũng vậy. Để hướng dẫn dân chúng, các ông không thể suy tư như họ. Vì thế đừng mong họ hiểu. Các bạn làm công việc của Thiên Chúa, Ngài sẽ ban thưởng khi thời lúc đến. Hai người hôn Giôsê và rời tàu. Cầu tàu dở lên và còi hụ. Chiếc tàu to lớn từ từ rời bến. Đứng dưới bến, hai người vẫy tay Giôsê. Chàng vẫy tay lại. Chàng xem buồn bã và cô đơn một mình trên tàu. Đó là lần cuối cùng bạn bè thấy chàng.
Giôsê được giao cho công việc ở phòng ăn. Chàng phải trình diện với đầu bếp lúc sáu giờ sáng để dọn bàn ăn, và hầu bàn cho khách ăn điểm tâm. Chàng phải trở lại bếp lúc mười một giờ và hầu bàn bữa trưa. Cơm chiều vào lúc sáu giờ, vì thế chàng phải sẵn sàng lúc năm giờ để dọn ăn. Ngoài ra thì chàng được tự do.
Khi người thủy thủ chỉ dẫn xong, Giôsê đi lên boong tàu và nhìn qua nước vào đất liền. Nó cứ xa dần. Một nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn Giôsê, khi chàng nghĩ đến những cái tốt lành và đẹp đẽ chàng thấy ở dân chúng mà chàng gặp gỡ trong thời gian ngắn ở Ôbờn. Chàng cũng nghĩ đến cha chính xứ và vị giám mục, chàng thương hại họ. Đời sống của họ thật nông cạn và trống rỗng. Họ không có gì mấy để cống hiến cho dân chúng. Chàng nhìn ra biển và không biết việc gì sẽ xảy ra trong vài tuần nữa. Chuyện vui hay chuyện buồn?
Chưa chi đã mười một giờ. Giôsê đi trình diện với đầu bếp. Ông ta bảo chàng lấy nước và dọn bàn. Ông chỉ cho chàng những đĩa ăn để ở đâu và bảo chàng đem chúng đến quày để ông bỏ thức ăn lên. Ông bảo chàng cắt bánh mì và để lên mấy cái rổ. Lúc ấy hành khách vào phòng ăn. Họ rất thân thiện và hỏi chàng tên gì. Chàng nói tên mình với họ, trao đổi chuyện vui và chỉ họ chỗ ngồi. Người đầu bếp đưa cho Giôsê một khăn hầu bàn để vắt lên cánh tay.
«Để làm gì?», Giôsê hỏi.
«Để khi anh cầm thứ gì nóng, hoặc lau những vụn bánh trên bàn, hoặc khi mở rượu cho khỏi rớt trên khăn bàn».
Bữa ăn trưa tiến hành tốt đẹp. Chỉ có độ hai muơi lăm người cả thảy, gồm ông thuyền trưởng và thủy thủ đoàn. Giôsê rất lanh lẹ. Chàng theo dõi và dò trước mọi nhu cầu, nếu ai muốn gì thì chàng đến và lịch thiệp hỏi họ. Đặc biệt các bà rất phục cử chỉ nhã nhặn và mau mắn của chàng khi thấy ai cần thứ gì.
Cơm chiều cũng giống thế. Một số khách chú ý quan sát hơn, họ thấy ngay phẩm cách nhã nhặn tự nhiên của Giôsê. Họ muốn hỏi chàng nhiều câu để biết chàng nhiều hơn nhưng lại thôi, vì nghĩ rằng tốt hơn nên kính trọng đời tư của chàng. Tuy nhiên khi chàng trở nên đề tài ở các bàn ăn thì hành khách càng tọc mạch hơn. Vào ngày thứ hai của chuyến đi, người ta biết được chàng không phải là người hầu bàn tầm thường. Có một nét uy nghiêm ở người chàng bên dưới cái vẻ đơn sơ, cả khi chàng phục dịch. Mặc dù chàng không trò chuyện nhiều với khách, nhưng họ cũng thấy chàng rất thông minh trong cách trả lời. Trong những câu chuyện với chàng trên boong tàu ngoài các bữa ăn, họ hiểu biết chàng cách thân mật hơn và có lòng nể nang chàng. Họ ngượng ngùng khi chàng hầu bàn họ. Giôsê cảm thấy điều đó và cố gắng làm cho họ tự nhiên, chàng bảo rằng họ rất tử tế và chàng thích phục dịch cho họ lắm.
Chỉ có một người gây khó khăn cho Giôsê. Ông ta cộc cằn và ồn ào, và thấy cái gì cũng sai. Giôsê cố gắng làm ông hài lòng. Mọi người ngạc nhiên khi thấy chàng không bao giờ mất bình tĩnh. Ông ta càng xem ra dễ ghét khi thấy Giôsê không để ý gì, chàng chỉ mỉm cười và lờ đi những câu chỉ trích của ông. Những người khách khác thương hại cho Giôsê, nhưng hứng thú khi thấy cử chỉ của người đàn ông không làm chàng bực bội được.
Vào ngày thứ ba của chuyến du hành, trong khi Giôsê ngồi trên sân tàu, thì một thảm cảnh xảy ra bên dưới. Một thằng bé té xuống thang. Họ đem nó vào phòng bệnh và gọi bác sĩ. Ông chạy xuống và khám nó. Nó bị gãy cổ và khó thoát chết. Ông bác sĩ làm hết sức mình, nhưng không được gì. Thằng bé chết vài phút sau đó. Bác sĩ khám nghiệm hình quang tuyến ông đã chụp và thấy gãy hai đốt xương sống gần cổ. Tên thằng bé được chuyền đi khắp tàu rất mau. Tên nó là Mai Liên Dênết.
Khi nghe tin đó Giôsê không nói gì, chỉ xin kiếu với vài hành khách để đi xuống hầm tàu. Khi chàng đi dọc hành lang thì thuyền trưởng rời phòng vô tuyến. Ông thấy Giôsê, nhưng không để ý đến chàng cho đến khi thấy chàng đi về phía phòng bệnh. Rồi ông cảm thấy tò mò. Ông nhìn chàng từ đàng xa và thấy chàng đi vào căn phòng mà xác chết đang nằm. Không có ai trong phòng cả, và vì Giôsê để cửa mở một nửa nên thuyền trưởng thấy được hết mọi việc.
Giôsê bước đến cái bàn có xác chết nằm, nâng tấm vải dưới đầu thằng bé và gọi lớn, «Mai Liên, dậy đi». Thuyền trưởng cảm thấy lạnh xương sống, ông không biết phải la lên mừng rỡ vì con của bạn ông còn sống, hay là phục gối xuống. Cha thằng bé là bạn lâu năm của ông, nên ông cảm thấy đau khổ lắm trước tại nạn đã xảy ra. Nhưng giờ đây niềm vui mừng của ông lại ngàn lần lớn hơn cái đau khổ, và ông mừng rỡ không thể tả. Trong khi đó, Giôsê bảo thằng bé ăn miếng bánh mì mà chàng mới đưa cho nó. Mai Liên hỏi việc gì đã xảy ra. Giôsê bảo nó không có gì và đừng nói cho ai biết. Rồi Giôsê rời căn phòng và đi lên boong tàu như thể không có việc gì đã xảy ra.
Ông thuyền trưởng lập tức đi gặp bác sĩ và bảo ông là thằng bé đã ngồi dậy được. Bác sĩ nói là phi lý, vì thằng bé đã chết rồi. Hai người chạy đến phòng bệnh, và khi bác sĩ thấy Mai Liên đứng gần giường, ông phát điên lên. Ông bảo thằng bé leo lên bàn.
«Tại sao? Cháu không sao cả».
«Con ạ, con chết rồi. Tại sao thế này?», bác sĩ hỏi.
Thằng bé không nói gì, nhưng bác sĩ khăng khăng hỏi. Thuyền trưởng cũng không thể nói cho bác sĩ biết việc gì đã xảy ra. Bác sĩ đòi phải chiếu điện một lần nữa. Phim quang tuyến không cho thấy gì cả, không có chỗ gãy, cũng không có vết gãy. Ông không thể lầm. Ông nóng nảy cầm cái phim đầu tiên lên nhìn, so sánh với phim thứ hai, và với giọng thoả mãn, ông chỉ cho thuyền trưởng. «Đây, cổ nó gãy. Thấy không? Nhưng cái gì đã xảy ra? Tại sao nó lành? Tôi không thể hiểu được».
Bác sĩ cho thằng bé đi ra và bảo nó nếu cảm thấy yếu trong người hay nôn mửa thì trở lại ngay. Khi Mai Liên đi lên boong tàu thì nó trở nên nổi tiếng. Ai cũng muốn biết cái gì đã xảy ra. Mai Liên nói với họ những gì nó nhớ, nó té xuống cầu thang và mang máng nhớ những người đứng chung quanh nó, nhưng không nhớ gì nữa cho đến lúc nó thức dậy. Nó thấy gì không khi nó chết? Nó có nghe nhạc hay tiếng nói gì không? Nó có thấy Chúa không? Thằng bé nói rằng nó không thấy gì cả cho đến lúc nó thức dậy. Ông thuyền trưởng không biết phải làm gì. Ông phải làm một bản tường trình đầy đủ, nhưng ông phải viết gì trong đó? Ông có nên viết những gì ông đã chứng kiến không? Ai sẽ tin? Nhưng ông không có một sự lựa chọn nào. Ông chỉ có thể viết điều ông trông thấy. Nếu họ tin, thì mọi việc sẽ tốt đẹp. Nếu họ không tin, thì đó là việc của họ.
Ông bác sĩ gặp rắc rối hơn. Ông không thể giải thích được những giây phút ngắn ngủi giữa lúc ông từ giã thằng bé nằm chết và lúc thấy nó đứng dậy vài phút sau đó. Thuyền trưởng cũng không giúp được gì, mặc dù về khuya đêm đó ông tâm sự với bác sĩ điều ông đã chứng kiến. Bác sĩ cười khỉnh, nhưng không biết phải viết gì trong bản tường trình của ông.
Việc tình cờ đó xảy ra vào giữa trưa. Thuyền trưởng Phongli rất cảm xúc với biến cố đó. Ông bắt đầu thắc mắc về lý lịch thực của anh hầu bàn khiêm tốn vui vẻ phục dịch cho khách này. Vị giám mục có cho ông biết ít chi tiết về Giôsê, nhưng không có cái nào xem đúng với con người mà ông biết trong mấy ngày qua. Ông bắt đầu sợ sệt khi nghĩ đến Giôsê phải hầu bàn, nhất là hầu bàn cho ông.
Thuyền trưởng gọi Giôsê đến phòng ông. Khi chàng đến, ông mời chàng ngồi ghế và đối xử với chàng rất nhã nhặn. «Giôsê», ông nói, «tôi đã quyết định không để anh làm trong phòng ăn nữa».
«Tại sao, thưa thuyền trưởng?», Giôsê hỏi, có vẻ quan tâm.
«Tôi thích phục dịch cho khách. Họ là những người tốt và tôi thích làm một cái gì cho họ».
«Giôsê, tôi đã thấy việc gì xảy ra trưa nay. Bây giờ tôi biết và hiểu anh hơn lúc trước. Anh khác nhiều với điều tôi nghe nói về anh, và tôi rất ái ngại để anh làm công việc hèn hạ thế đó.»
«Nhưng, thưa thuyền trưởng, đó là sự đồng ý giữa tôi và giám mục, và tôi muốn giữ lời».
Thuyền trưởng nghĩ ngợi một lúc. «Được, nhưng tôi ái ngại về việc đó lắm». Rồi ông cười khi nghĩ ra việc gì. «Tôi nghĩ ra rồi. Tôi thích nấu ăn, nhưng không bao giờ có dịp. Hay là tôi cho người đầu bếp nghỉ ngơi, anh và tôi sẽ nấu ăn và hầu bàn chung với nhau? Tôi thường làm việc đó một đêm trong mỗi chuyến du hành».
Giôsê cười và đồng ý. Do đó thuyền trưởng gọi người đầu bếp và cho biết ý định của ông. Người đầu bếp mừng lắm. Anh ta không phiền hà gì. Vì vậy lúc bốn giờ ba mươi Giôsê và thuyền trưởng đi xuống bếp. Giôsê dọn bàn như thường lệ, và lấy đồ trong tủ cho ông thuyền trưởng, trong khi đó ông ta lục tủ lạnh và tủ đựng thức ăn để tìm những thứ cần đùng cho bữa ăn.
Món khai vị là cá Đức với kem chua, thịt nhồi chiên với nước tương đậu nành chua, và cà chua thái mỏng phết tương chua. Món tiếp là rau át-ti-sô và xà lách trộn. Món ăn chính là sa-tế Nam đương, một kiểu thịt nướng của vùng Đông Nam Á, dọn với tương đậu phọng và cơm nghệ. Thức ăn tráng miệng là bánh ngọt dọn với tương trái mơ và mấy loại cà phê.
Bữa ăn tối có hơi muộn, nhưng không ai phiền hà gì. Người ta chuyền miệng nhau rằng ông thuyền trưởng nấu ăn, do đó khách hàng không mong nó đúng giờ. Họ rất thích khi nghe ông thuyền trưởng làm đầu bếp. Ông xem rất ra vẻ khi mang cái khăn che mình màu trắng và đội mũ nấu ăn.
Giôsê dọn những món khai vị. Khách rất thích. «Thuyền trưởng nên tiếp tục nấu ăn», người đầu bếp có ý kiến như thế trong khi ngấu nghiến món thịt nhồi. Món kế tiếp được đem ra. Khách hàng không ngờ lối sành ăn của ông thuyền trưởng. Thực vậy, đó là một lối ngoại giao khéo léo. Lối đó đem người ta lại gần nhau. Khi món ăn chính và món tráng miệng cũng như cà phê được dọn ra, ai ai cũng phải thán phục.
Khi khách hàng ăn xong và Giôsê lau bàn xong, họ ngồi lại ăn đồ tráng miệng và uống cà phê. Sau đó ông thuyền trưởng và những người phụ tá cùng ngồi ở bàn thuyền trưởng và ăn tối. Họ rất hãnh diện về chính mình, đặc biệt khi thuyền trưởng đến khen họ đã làm việc tốt. «Tôi không làm khá hơn», ông bảo họ. Mọi người cùng cười.
Bầu khí trên chiếc tàu thay đổi ngay sau đó. Mọi người xem ra thoải mái và thân thiện hơn. Đoàn thủy thủ ăn trong phòng riêng, họ cũng ăn cùng thức ăn như khách, và lại thích nữa. Họ thay đổi thái độ đối với thuyền trưởng. Họ vẫn kính trọng ông, nhưng giờ đây họ có cảm tình với ông hơn, họ thấy ông cũng có thể rất là người. Họ tỏ lòng biết ơn bằng cách làm thêm những việc lặt vặt không phải là bổn phận của họ.
Giôsê thấy nhiều cái tốt nơi thuyền trưởng. Đó là lý do tại sao ông được chọn để chứng kiến việc chàng làm. Hai tối tiếp theo thuyền trưởng và Giôsê cũng làm như hai dêm trước, nhưng với những thực đơn khác. Hai người gần gũi nhau hơn khi họ hiểu biết nhau. Thuyền trưởng chưa nói với ai về biến cố ở phòng bệnh, trừ ra với bác sĩ. Ông hối hận vì đã bảo ông bác sĩ. Điều đó làm bác sĩ ấy buồn và khổ não từ hôm ấy.
Biến cố đó cũng làm cho Mai Liên và Giôsê gần gũi nhau. Họ chia sẻ cái bí mật. Vì quen biết thuyền trưởng, nên Mai Liên nói cho ông nghe việc đã xảy ra làm sao và hỏi ông nghĩ thế nào. Thuyền trưởng thú nhận ông cũng không hiểu và ông chỉ nghĩ rằng tuy bên ngoài Giôsê có vẻ đơn sơ, nhưng là một người lạ thường, chàng phải gần gũi với Thiên Chúa lắm. Mai
Lên bảo ông rằng nó nghĩ chàng còn là gì hơn nữa, rồi nó tiếp tục nói cho ông nghe nhữmg kinh nghiệm đã xảy ra tại nguyện đường của cha nó ở Ôbờn.
«Nếu ông mà nghe chú ấy», Mai Liên nói, «Chú ấy được ơn soi sáng, cháu chắc chắn như vậy. Phải chi ông thấy những gì đã xảy ra trong đêm đó ở nguyện đường. Một ông gàn trong cộng đoàn đến gặp Giôsê và oán trách chú ấy về việc người Kitô giáo bách hại người Do thái trong lịch sử. Chú Giôsê chỉ lắng nghe, rồi ôm lấy ông ấy. Hai người trở thành bạn ngay lúc đó và nắm tay nhau đi vào nguyện đường. Thật là đẹp đẽ». Thuyền trưởng chỉ lắng nghe, cố gắng tìm hiểu, và thắc mắc tại sao vị giám mục đưa chàng đi Rôma để điều tra.
Ngày thứ ba của chuyến du hành không có gì xảy ra, mặc dù biển bắt đầu động. Giôsê bị say sóng nặng nên phải bỏ ăn trưa. Chàng cũng cố gắng vào bếp, nhưng khi ông đầu bếp thấy chàng, ông gọi ngay thuyền trưởng. Thuyền trưởng ra lệnh cho Giôsê về giường nằm và gọi bác sĩ cho chàng thuốc cầm nôn. «Hắn chữa được người khác, nhưng không chữa được cho mình», bác sĩ bảo thuyền trưởng. Thuyền trưởng nhăn mặt khi nghe những lời đó.
Ngày hôm sau tàu đến gần Adô. Thời tiết thay đổi bất thường ở vùng này, thuyền trưởng bảo hành khách nếu họ cảm thấy bệnh thì hãy gặp bác sĩ và có lẽ nên uống thuốc ngừa nôn. Biển trở động, những đám mây đen tụ ở chân trời. Buổi sáng không đến nỗi tệ, nhưng vào trưa sóng biển dâng cao và những cơn mưa lớn bắt đầu đánh vào ghe.
Thuyền trưởng gọi phòng vô tuyến hỏi báo cáo về thời tiết. Mưa to, gió mạnh. Sóng biển đánh dữ dội và bắt đầu lung lay tàu. Những máy giữ thăng bằng không còn hiệu lực. Các thủy thủ phải buộc chặt những gì lay chuyển kẻo chúng rơi xuống biển. Hầu hết mọi người trở về phòng của mình hoặc phòng giải trí đang chiếu phim Con Beo Hồng Trở Về. Giôsê nằm trong phòng cố gắng nghỉ ngơi. Chàng không chịu được biển động.
Đến bốn giờ chiều thời tiết càng tệ hơn. Mưa đập vào tàu mạnh quá đến độ không nghe được tiếng người nói. Gió thổi mạnh như bão và tin vô tuyến cho biết tàu không nên rời hải cảng cho đến khi bão lặng.
Thuyền trưởng lần đến đầu tàu để ở với người lái tàu. Anh ta không thấy gì hết bên ngoài cửa sổ. Chiếc tàu lắc lư kinh khủng. Có lần người lái tàu mất thăng bằng và ngã vào tường, dập đầu lên một cái đinh sắt. Anh lau máu trên đầu và đội mũ chồng lên khăn lau mặt đậy trên đầu.
Sóng biển càng dâng cao. Sóng đã cao đến gần năm thước và sẽ dâng cao nữa. Thuyền trưởng bắt đầu lo sợ tàu không chịu nổi. Đó là một chiếc tàu cổ, nó đã chịu nhiều sóng gió lúc trước, nhưng lần này tệ nhất và tàu chỉ có thể chịu đựng đến một mức nào thôi. Người lái cố gắng tránh các con sóng đang đánh tới, nhưng gió đẩy chiếc tàu lao vào sóng làm tàu ngập cả nước gần lật úp.
Thuyền trưởng nhìn ra cửa sổ xem bão có lắng xuống không, hy vọng không có tàu nào đang chạy. Bão biển làm mọi người cảm thấy bất lực. Một chiếc tàu lớn và khoẻ lướt đi như ghe buồm khi trời tốt, giờ đây lại tùy thuộc hoàn toàn vào thời tiết. Nó bị đánh bập bềnh như một khúc gỗ trôi giạt. Điều mà bất cứ thuyền trưởng nào chỉ có thể làm được lúc này là giữ cho tàu vững và hành khách không hoảng hốt.
Tuy nhiên thuyền trưởng Phongli bắt đầu lo lắng hơn. Không có dấu gì bão sẽ dịu, và ông cũng không làm gì được nữa. Ông cầu nguyện trong tiếng thở dài và tiếp tục nhìn ra bức tường mưa. Ông đi qua bên phải tàu và nhìn xem có hư hỏng gì trên boong tàu không. Cho đến giờ chưa có gì. Ông không nhìn rõ lắm nhưng ông nghĩ là ông thấy một cái gì lạ thường. Ông nhìn lại một lần nữa và thấy lờ mờ một hình người bấu chặt tay cầm của cái thang và đang leo lên boong tàu. Thuyền trưởng giật nẩy mình không tin. Đó là Giôsê. Trời ơi, hắn làm gì ở đó? Bước sai, hay lỡ chân trên sân láng bóng đó thì hắn sẽ bị cuốn xuống biển. Ông mở cửa sổ và gọi lớn, nhưng biết là vô vọng. Hắn làm gì ở đó? Thuyền trưởng chỉ nhìn và ghi nhớ lấy điều chính mắt ông trông thấy. Ông đã bắt đầu yêu mến con người đơn sơ và tốt lành đó, ông cảm thấy thích Giôsê trong mấy ngày qua. Nhưng tại sao hắn làm việc dại dột thế này? Ông âm thầm cầu nguyện cho anh chàng bất hạnh này. Hắn đang cố gắng làm gì? Hắn sẽ làm gì?
Thuyền trưởng đứng đấy bất động và nghẹt thở, khi thấy Giôsê ướt mẹp đang lần đi lên boong tàu. Trong chốc lát gió đổi chiều. Chiếc tàu êm lại trong khoảnh khắc, đủ để Giôsê đứng thẳng người lên. Chàng đưa mắt nhìn lên trời và giang tay ra như thể truyền lệnh cho gió. Miệng chàng như gào với gió hú, xem chàng như người điên. Thuyền trưởng thấy thương hại cho anh chàng bất hạnh này. Có thể đấy là điều làm cho vị giám mục sợ.
Bỗng nhiên gió lặng, mưa thưa, và sóng biển im đi. Những đám mây bắt đầu tan, để trời xanh lộ ra và mặt trời chiếu một luồng ánh sáng rực rỡ qua quảng trống trên trời. Giôsê quay lại đi vào trong, và biến mất bên dưới boong tàu. Chàng đi vào phòng tắm để rửa và lau khô.
Thuyền trưởng lấy tay che mặt, ông sợ hãi với điều ông vừa chứng kiến. Người lái tàu nghĩ là ông đọc kinh cám ơn vì bão đã ngừng. Thuyền trưởng bảo người lái tàu đi xuống dưới nghỉ ngơi, ông sẽ thay chàng một lúc. Người lái tàu cám ơn ông. Chắc chắn anh cần nghỉ ngơi. Anh bước ra và đi xuống dưới hầm tàu.
Thuyền trưởng suy nghĩ và thắc mắc về điều ông vừa thấy. Ông ta càng không nghi ngờ lý lịch của con người khiêm tốn và đơn sơ này. «Nhưng có thể được không? Có thể xảy ra được không?», ông thắc mắc, nước mắt chảy xuống má khi ông nghĩ rằng điều đó có thể xảy ra cho mình, mặc dù ông không xứng đáng. Ông nhớ lại thời thơ ấu, nhớ lại khi người chú của ông là một linh mục nói cho gia đình ông nghe nhiều chuyện đã xảy ra trong đời những kẻ có đức tin đơn sơ. Nhưng thuyền trưởng không phải là người có đức tin đơn sơ, ít là ông không nghĩ mình như vậy. Ông cảm thấy có lỗi vì đã không đạo đức hơn. Ông nghĩ đến người chú của ông đang làm Hồng y tại Vatican. Ông sẽ nói với ngài tất cả việc này khi ông lên bờ. Có thể ngài sẽ giải thích cho ông được. Ông mong tàu cập bến. Ông sẽ gọi điện thoại cho chú ông ngay.
Sau khi nghỉ một lát, người lái tàu trở lại và cám ơn thuyền trưởng.
«Anh có nghỉ được không?», thuyền trưởng hỏi.
«Có, nhưng tôi nghĩ đến cơn bão và không hiểu tại sao nó biến đi nhanh như thế. Tôi hỏi người giữ vô tuyến, nhưng anh ấy nói không hiểu tại sao trời ở đây quang, trong khi anh ta còn nhận được tin báo động trầm trọng. Còn có những cơn bão và gió mạnh trong vùng, xa đến tận Canari»
«Chắc chắn có», ông thuyền trưởng chỉ trả lời đơn sơ, rồi ông đi tìm Giôsê.
Khách bắt đầu trở lên boong tàu khi thuyền trưởng đi xuống. Mặt trời ló diện và không khí tốt lành. Ông hỏi có ai thấy Giôsê không? Vài phút trước đó có người thấy chàng ướt mẹp đi vào phòng của mình. Thuyền trưởng đi xuống bên dưới boong.
Ông nghe một khúc hát không mấy quen thuộc bên trong. Ông gõ cửa.
«Mời vào».
Ông thuyền trưởng mở cửa. Giôsê đang lấy cái áo phơi ở ống nước nóng chạy phía sau lưng tủ. Chàng mặc áo và chào ông thuyền trưởng như không có việc gì đã xảy ra.
«Ông muốn tôi làm gì?», chàng hỏi thuyền trưởng.
«Không, anh làm đủ rồi», ông thuyền trưởng trả lời ngay.
Giôsê lờ đi lời chú thích đó, chàng không muốn bị lôi vào cuộc thảo luận không thể tránh được tiếp sau đó.
«Tôi xin cám ơn những gì anh đã làm», thuyền trưởng nói cách khiêm tốn. Giôsê chỉ mỉm cười với ông một cách lạ lùng và trẻ con, như thể không có gì cả.
«Giôsê, tôi không biết phải nói gì», thuyền trưởng nói, «nhưng tôi rất hãnh diện được có anh trên tàu của tôi. Thực sự tôi không xứng đáng với những gì đã xảy ra trong mấy ngày qua. Tuy nhiên tôi biết nó sẽ thay đổi cả cuộc đời tôi. Tôi thấy những việc đã xảy ra là không đúng: cuộc điều tra ở Rôma, lòng ngờ vực của giám mục và của những thẩm quyền khác. Tôi có một người chú ở Vatican. Có thể ông ấy sẽ giúp anh được khi anh đến đó. Tôi sẽ gọi cho ông khi tôi lên bờ và bảo ông đợi anh. Tên ông là Hồng Y Giôvani Ricađô. Ông là một người tốt.»
«Cám ơn ông», Giôsê nói, «Có thể tôi cần giúp đỡ khi đến đó. Tôi nghĩ rất khó để cho họ hiểu tôi. Tôi không hy vọng lắm».
«Nhưng làm sao họ bắt tội anh được? Xét cho cùng, chính anh là người gây nên… .» Giọng ông kéo dài trước khi ông nói xong, ông biết rằng mình đang ở trong lãnh vực không thuộc về mình. Ông không có quyền tìm tòi xa hơn và biết Giôsê sẽ chỉ mở hé cửa thôi. Ông đã nghe và thấy đủ rồi.
«Nhưng họ không biết gì, cũng giống như ông khi tôi bước lên tàu lần đầu tiên».
Thuyền trưởng đỏ mặt vì ông đã tiếp đón Giôsê cách lạnh nhạt khi chàng lên tàu. Giôsê nhắc cho thuyền trưởng rằng gần đến giờ cơm tối và họ chưa chuẩn bị thức ăn.
Hai người bước ra khỏi phòng, thuyền trưởng hỏi Giôsê có dậy nổi để làm bếp sau cái cực hình vừa rồi không? Giôsê nhìn ông với vẻ nghiêm khắc và nói rằng chàng thích hầu bàn cho khách hàng lắm. Đã từ lâu chàng không được vui như vậy. Mỗi người có thích thú riêng. Chàng sung suớng khi làm cho người ta thích thú.
«Tôi nghĩ đó là lề lối của Thiên Chúa», thuyền trưởng vui vẻ nói. Giôsê cười vì thuyền trưởng nói đùa.
Bữa ăn tối muộn, nhưng dân chúng không phiền hà gì. Họ đến sớm một giờ, ăn rau, trái cây và đồ nguội, và cám ơn Trời đã hết bão. Đây là bữa ăn tối cuối cùng trên tàu, và thuyền trưởng trổ hết tài, mặc dù đã mệt nhọc lái con tàu qua cơn bão tố. Đó là bữa ăn tự chọn với những món thật mỹ vị để đãi khách.
Bữa ăn tối cuối cùng kéo dài đến quá khuya. Và vì mọi người thích thú, nên đêm đó trở thành một đêm tiêu khiển.
Trong khi ăn, ông bác sĩ theo dõi Giôsê. Ông tọc mạch lắm. Hơn nữa, ông đã uống nhiều quá và nhất định kéo Giôsê vào câu chuyện.
Khi mọi người ngồi quanh quẩn trò chuyện, ông gọi Giôsê đến và kéo ghế cho chàng. Ông mời Giôsê một ly rượu nhưng chàng từ chối, ông hỏi Giôsê đi học ở đâu. Giôsê bảo ông chàng có được một sự giáo dục rộng rãi và có những thày giáo ưu tú, mặc dù chàng không bao giờ đi đến trường. Bác sĩ cười vì lối hài hước không mấy nghiêm chỉnh của chàng.
«Anh là một người thông minh lắm», bác sĩ nói. «Thực vậy, anh thông minh hơn mọi người trong phòng này. Này, anh bạn trẻ, tên anh là gì, Giôsê. Này, tôi chưa viết bản tường trình sức khoẻ của thằng bé đó», ông bác sĩ nói lê thê. «Thành thực mà nói, tôi không biết phải đặt bút viết gì. Có lẽ anh giúp tôi được».
«Làm sao tôi giúp được, thưa bác sĩ, ông là người chuyên môn», Giôsê đáp.
«Có thể tôi là người chuyên môn, nhưng có một số việc làm tôi sai bét. Và, thành thực thú nhận, đây là một trong những việc đó. Anh có tin phép lạ không, anh bạn trẻ?».
«Không».
Ông bác sĩ sửng sốt. Ông đang chờ nghe một bài giảng đạo đức. «Vậy, làm sao anh giải thích được cái việc đã xảy ra ngày hôm ấy?».
«Một việc nhỏ như thế lại làm bận trí ông, bởi vì ông không thấy những huyền nhiệm vĩ đại hơn xảy ra liên tục mỗi ngày. Cái việc xảy ra ngày hôm ấy làm ông ngạc nhiên vì ông không ngờ. Nhìn vào gương soi khi ông đi vào phòng ông tối nay, ông sẽ thấy nhiều sự lạ lùng diễn ra còn hấp dẫn hơn là một cái xương được lành và một mạng sống được cứu. Mỗi ngày có đầy dẫy những sự lạ lùng vô biên mà chúng ta cho là đương nhiên, bởi vì chúng xảy ra cách im lìm như dòng đời. Tuy nhiên, mỗi biến cố nhỏ và một thời lúc, là một phép lạ sáng tạo».
«Rất là thơ mộng», bác sĩ chú thích, «nhưng anh cho đó là sáng tạo. Tôi nghĩ là vì anh tin có Thiên Chúa».
«Không. Chúng ta tin cái gì chúng ta không thấy. Tôi biết có Thiên Chúa, cũng như ông biết chắc tôi đang ngồi đây trước mặt ông».
«Tôi phải viết gì về việc đã xảy ra với Mai Liên», cuối cùng bác sĩ hỏi.
«Viết điều ông đã chứng kiến. Nó đơn sơ lắm. Chỉ vì ông không tin điều ông thấy, nên ông mới gặp khó khăn khi viết những sự kiện đơn sơ», Giôsê bảo ông.
«Tôi sẽ bị loại ra khỏi hội y khoa nếu tôi viết điều đó xuống», bác sĩ trả lời.
«Nhưng nếu đó là sự thật, thì chính ông là người phải cười cái dốt nát của họ. Khi ông chứng kiến một cái gì tốt đẹp, ông phải vui thích và hãnh diện, không nên hổ thẹn và sợ hãi».
«Anh là một người lạ lùng, Giôsê. Tôi không biết phải nghĩ gì về anh. Mai Liên được chữa làm sao?», ông bác sĩ đi thẳng vào vấn đề.
Giôsê cười. «Khi chúng ta cầu nguyện, thì Thiên Chúa lắng nghe. Khi chúng ta cần, thì Thiên Chúa ban cho. Đức tin như cái nhìn tuyệt vọng trên mặt con nai trong mùa săn. Thiên Chúa không thể từ chối».
«Giôsê, tôi ước có được đức tin của anh, hoặc bất cứ cái gì anh có. Anh rất thong dong và hạnh phúc. Tôi không tin ở Thiên Chúa. Tôi nghĩ tôi là người vô thần».
«Không ai chữa bệnh mà có thể là người vô thần. Đời sống của họ chỉ hơi lệch lạc thôi. Vì quá quen nhìn những sự kỳ diệu nên ông để chúng tuột khỏi kẽ tay. Khi ông để giờ xem xét lại những cái kỳ diệu mà ông mổ xẻ, và đứng lùi lại mà nhìn, ông sẽ thấy phản ảnh của Thiên Chúa và hình bóng Ngài đi qua. Lúc đó ông sẽ không còn nghi ngờ nữa. Quyền năng chữa bệnh của Ngài thể hiện mỗi ngày qua những ngón tay của ông, nhưng ông không để giờ cảm thấy sự hiện diện của Ngài. Ông là đôi tay của Thiên Chúa. Vì Ngài gần gũi quá mà ông không trông thấy Ngài».
«Anh bạn trẻ ơi, anh làm tôi rối rắm. Tôi đã nói với anh, anh thông minh hơn những người ở đây».
Giôsê mỉm cười và, sau khi bảo bác sĩ rằng chàng rất thích nói chuyện với ông, chàng xin kiếu và ra khỏi phòng ăn. Đó là một ngày dài, và cho dù Giôsê có thong dong và không câu nệ, các biến cố trong ngày cũng làm chàng kiệt sức. Ngày mai họ sẽ đến Ý Đại Lợi, và một chương sách mới sẽ mở ra. Chàng cần ngủ.

Khi về đến phòng ngủ và vặn đèn lên, chàng thấy một cái hộp nhỏ rơi ra khỏi bao mà chàng để đồ đạc của chàng. Đó là món quà cha Đabi đã tặng chàng. Chàng lượm nó lên và mở ra. Trong đó có hai đồng tiền Rôma giống những đồng tiền mà Giêsu nói khi giảng dạy, «Trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa». Giôsê cười. Vị linh mục có tính hài hước. Giôsê nhớ lại lời phê bình mà chàng đã nói trong một dịp nào đó, khi chàng nói với linh mục về giáo phái của ông. Chàng nói rằng khi đặt vua Anh quốc làm đầu Giáo hội, các giám mục không những đã làm sai lệnh của Giêsu, nhưng còn phản bội sự tin cậy thánh thiện và các ông giao trả Nước Trời cho Xêda. 
____________________________________

Chương trước (17) <=> Chương sau (19)



Comments

Popular posts from this blog

Chân Dung Đức Giêsu (Lm Jos. F. Girzone)

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Cốt tuỷ chung của các tôn giáo