19 Giôsê - Chương mười chín
CHƯƠNG
MƯỜI CHÍN
Chiếc tàu Sao Biển cập
bến ở Ôtia. Lúc ấy trời đã vào chiều. Hành khách đứng dọc boong tàu, hào hứng
nhìn cảnh vật. Cái thị trấn cổ đang hiện ra.
Chiếc tàu cổ hạ neo.
Ông thuyền trưởng chào hành khách khi họ nối đuôi lên bờ. Ông thân mật bắt tay
Giôsê, và trong giây phút cuối cùng ông ôm choàng lấy chàng, hai người ôm nhau.
Mai Liên đứng gần ông thuyền trưởng cũng làm như thế. Họ cám ơn Giôsê về hết mọi
việc và chúc chàng may mắn. Ông bác sĩ cũng đi Rôma vài ngày và hỏi Giôsê có muốn
quá giang không. Giôsê vui mừng nhận lời ngay. Chàng không có nhiều tiền và
cũng đã định đi bộ.
Đi xe đến Rôma cũng
gần. Bác sĩ bảo Giôsê rằng ông suy nghĩ nhiều về câu chuyện họ trao đổi tối hôm
trước, và ông đã viết trong tờ tường trình những sự kiện y như đã xảy ra. Ông cảm
thấy sung sướng về việc đó, mặc dù ông không biết nó có ý nghĩa gì. Ông vui sướng
vì đã gặp Giôsê và nghĩ là sẽ không gặp được người nào như chàng nữa.
Giôsê bảo ông đừng
quá khắt khe với chính mình. Ông là một người tốt và rồi, khi mọi việc đâu vào
đấy, ông sẽ tìm được bình an.
Bác sĩ bỏ Giôsê xuống
ở công trường Thánh Phêrô. Sau khi chào từ giã, Giôsê mang cái túi du lịch đi
vào công trường rộng rãi. Chàng mở rộng mắt nhìn cái vĩ đại và huy hoàng của thế
giới Kitô giáo như thể hiện sự uy nghiêm của Thiên Chúa.
Công trường với các
pho tượng khổng lồ đứng trên những hành lang xem như đang giang tay ôm ấp thế
giới. Cái vương cung thánh đường cao vời vợi trước mặt chàng thật là huy hoàng
so với đền thờ Giêrusalem ngày trước. Chàng mơ tưởng lại những hành lang tương
tự, ngàn lần nhỏ hơn, tấp nập dân chúng, linh mục và những người Pharisêu trong
các chiếc áo dài lê thê. Hình ảnh người đàn bà bị bắt quả tang đang ngoại tình
sống lại trong trí nhớ của chàng. Tất cả xem ra nhỏ bé so với kích thước của đền
đài rộng lớn này.
Chàng đi qua công
trường rải đá vào thánh đường. Dân chúng đi lang thang cùng khắp, nhìn đó đây, cố
gắng thâu lượm những gì mà mắt trông thấy. Các giáo sĩ áo đen mang cặp đứng rải
rác ở những chỗ trống. Giôsê bước lên các bực cấp của lối vào, và đi vào cung
thánh rộng lớn. Chàng để ý thấy tượng Phêrô, có một ngón chân mòn đi vì người
ta sờ đến nhiều. Chàng mỉm cười. Chàng nhìn lên trần bảng và say mê ngắm những
hình ảnh diễn tả trọn bộ Thánh Kinh. Chàng đi đến các gian bên, xem từng chi tiết
các bức vẽ và các pho tượng. Tiếng đại phong cầm nghe vang vì người nhạc sĩ
đang tập dượt cho buổi hoà tấu hay lễ Chúa nhật. Trên bàn thờ chính là một hào
quang to lớn biểu hiệu cho huy hoàng của thiên đàng. Sức tưởng tượng và thiên
tài của con người đã được khai thác triệt để trong việc diễn tả thiên đàng cho
loài người. Những người nghệ sĩ đã tài tình mô tả cái uy nghiêm của Thiên Chúa.
«Nhưng», Giôsê suy nghĩ, «tại sao con người cố gắng lắm để mô phỏng
thiên đàng trên trần gian, trong khi lại gặp khó khăn trong việc tiếp thu cái sứ
điệp của hang đá? Họ thích diễn tả cái uy nghiêm của Thiên Chúa và cảm thấy thoải
mái với quyền lực xa hoa, hơn là sống cái đơn sơ của sứ điệp đích thực. Họ đã
không hiểu ý nghĩa của phúc âm. Giảng khó nghèo và thoát ly trong bối cảnh thế
này thì ai tin?»
Chàng bước ra khỏi
vương cung thánh đường và đi về phía con đường phụ mà chàng sẽ ở. Nhà trọ là một
toà nhà cổ nhiều phòng làm bằng đá, cửa trước làm bằng gỗ với sườn sắt rất nặng.
Giôsê bước vào và tự giới thiệu với một ông già bé người đang ngồi ở bàn viết. Ông
điền một số giấy tờ và đưa chìa khoá phòng cho Giôsê. Cái phòng ở đàng góc, lên
bực thang ngắn. Đó là cái phòng duy nhất ở đầu thang. Phòng nhỏ, chỉ đủ để một
cái giường, một cái ghế và cái kệ.
Có một phòng tắm đơn
sơ với hoa sen. Chàng chỉ cần có bấy nhiêu.
Chàng đặt cái túi
trên ghế và ngả lưng lên giường nghỉ ngơi. Cuối cùng chàng đã đến đây. Ngày mai
chàng phải đi phỏng vấn. Chỉ trong vài phút chàng đã thiếp ngủ. Chàng mơ thấy Ôbờn
và dân chúng đơn sơ ở đấy; chàng mơ thấy nguyện đường, Massia và Aron. Chàng nhớ
họ và nhớ lại những kỷ niệm chàng để lại.
Chàng nghỉ độ nửa giờ,
rồi chỗi dậy, rửa mặt và đi ra đường. Chàng đi qua những con đường của Rôma, xem
dân chúng buôn bán, cũng một loại hàng mà bán với giá khác nhau. Chàng để ý thấy
ngay ở trung tâm của thế giới Kitô giáo những đứa bé vô kỹ luật, chúng làm những
nghề mà không đứa bé nào nên nghe nói đến. Mấy đứa gái ăn mặc kỳ lạ lại gần
chàng và mời chàng đi với chúng. Chàng ngạc nhiên khi thấy những chiếc xe nhỏ
xíu và xe gắn máy chạy thật nhanh trên những con đường hẹp, chúng tài tình
tránh né mấy bà già bé nhỏ đang cố băng qua đường. Chàng thấy những giáo sĩ mặc
giáo phục đi từng cặp nói chuyện rất sôi nổi về những biến cố trong ngày. Chàng
hơi nực cười khi thấy một nhà thờ Tin Lành oai nghiêm với hàng chữ lớn phía trước,
«Lux in tenebris luce» («Ánh sáng soi tăm tối»).
Một quán ăn nhỏ làm
Giôsê chú ý. Chàng đến xem giá tiền trên thực đơn ở cửa sổ. Giá có hơi cao, nhưng
vì đói bụng nên chàng bước vào và ngồi xuống. Một người hầu bàn trong bộ đồ đen
bước lại, trên tay vắt một cái khăn trắng. Thấy dáng chàng không phải là người
Ý, anh ta hỏi chàng muốn gì bằng tiếng Anh bồi. Một đĩa lớn món ăn Ý macarôni với
nước chấm đồ biển và một ly rượu Phacati. Anh hầu bàn ghi các món ăn và trở lại
với một ổ bánh mì và một đĩa rau sống trộn.
Giôsê nhìn quanh quẩn
phòng. Có những ảnh thành Náp và Cabi vẽ trên tường và những cái bàn nhỏ phủ
khăn hình bàn cờ màu đỏ và trắng. Chính giữa mỗi bàn có đặt một chai rượu
Kianti lớn với một cây nến, tạo nên một bầu khí ấm cúng và thích hợp. Một cặp
tình nhân trẻ ngồi trong góc đầu kia phòng, họ nói chuyện tình tứ trong khi ăn
món canôli và uống cà phê capusino â. Giôsê cảm thấy cô đơn.
Anh hầu bàn đem đến
đĩa macarôni bốc hơi nghi ngút đặt trước mặt chàng. Anh mở chai Phacati, đổ một
ít vào ly, và đưa cho Giôsê nếm. Giôsê đồng ý và người hầu bàn rót đầy ly cho
chàng. Giôsê cám ơn anh, chàng nhét khăn ăn vào áo và bắt đầu món ăn trộn nước
chấm đỏ. Chàng đói bụng và ăn ngon lành. Người hầu bàn đem đến một bát phó mát
xay nhỏ và đặt trên bàn.
Thỉnh thoảng Giôsê dừng
lại và nhấm rượu. Chàng thích bữa ăn và bảo anh hầu bàn thức ăn ngon lắm.
Khi ăn món macarôni
xong, chàng uống một ly cà phê nóng, rồi bỏ ít tiền thưởng, trả tiền bửa ăn và
đi ra. Lúc ấy đã gần chín giờ rưỡi. Chàng đi lòng vòng ở ngoài đường một lúc, thích
nhìn đèn màu và xem dân chúng ở trong những quán cà phê bên lề đường, rồi chàng
trở lại phòng và đi ngủ.
Ngày hôm sau trời
nóng và khó thở. Tiếng xe nhà và xe vận tải thay thế tiếng chim hót lúc mặt trời
mọc. Giôsê thức dậy sớm, rửa mặt, mặc quần áo, và đi đến một quán ăn nhỏ để ăn
sáng.
Cuộc phỏng vấn ở Toà
Thánh là chín giờ ba mươi. Không xa lắm, nên chàng còn nhiều thì giờ. Sau bữa
ăn sáng, chàng đi bộ đến cổng vào thị xã Vatican . Hai người lính Thụy sĩ
trong bộ đồ nhiều màu sắc hỏi chàng giấy tờ. Chàng bảo họ tên của chàng và nói
có cuộc phỏng vấn với Hồng Y Ricađô. Tuy nhiên chàng cũng phải trình giấy tờ. Giấy
tờ độc nhất chàng có là lá thơ của Hồng Y. Lá thư đó cũng đủ.
Lính gác cổng xem lá
thơ, và để chàng vào. Chàng lên lầu đi đến văn phòng thứ nhất có một thầy dòng
trực. Giôsê bảo thầy chàng là ai và tại sao chàng đến đây. Thầy gọi điện thoại,
rồi đưa cho Giôsê giấy phép và chỉ cho chàng đi lối nào. Thầy cho một người dẫn
lối chàng trong dinh thự.
Bên ngoài hội trường
mà Bộ Đức Tin cứu xét những vụ tố tụng có một lính gác đứng trực, anh soát giấy
tờ những người đi vào. Giôsê trình giấy phép của mình do ông thầy dòng cấp và
được phép đi vào. Lúc đó là đúng chín giờ hai mươi tám phút. Các viên chức đứng
quanh quẩn trò chuyện với nhau. Cái phòng có trần cao, chạy những đường viền bằng
cẩm thạch. Nền nhà cũng bằng cẩm thạch, ở giữa để một tấm thảm Ba tư. Giữa trần
nhà treo một cái đèn bách đăng.
Phía trước phòng đặt
một cái bàn dài. Nó được phủ bằng một tấm nỉ dày màu nâu. Một cái ghế giám mục
lớn ngồi chễm chệ giữa bàn. Những tập giấy và bút chì để gọn gàng trước mỗi chỗ.
Khi Giôsê đi vào, không
ai chào chàng. Vài người quay lại và nhìn về phía chàng, rồi tiếp tục câu chuyện
của họ. Hai vị giám mục mặc áo đen viền đỏ nhìn về phía chàng, rồi nhìn đi nơi
khác và tiếp tục nói chuyện. Giôsê cảm thấy khó chịu.
Đúng chín giờ ba
mươi một vị Hồng Y già và cao lớn mặc áo chùng đen bước vào phòng. Ông xem rất
lễ độ, đầu bạc, trẻ hơn tuổi trên dưới bảy mươi lăm của ông. Khi ông bước vào, mọi
người ngồi vào chỗ, và vị Hồng Y ngồi vào ghế dành riêng cho mình.
Có một cái ghế dài ở
giữa sàn nhà, cách xa cái bàn độ ba thước. Một trong các giáo sĩ ra dấu cho
Giôsê ngồi vào chỗ của mình. Vị Hồng Y bắt đầu bằng một kinh, cầu xin Thánh
Linh hướng dẫn công việc nghiêm trọng mà họ sắp làm. Ông cầu xin cho họ hướng dẫn
công việc tố tụng trong đức ái và trong công lý, và xin cho chân lý được thể hiện.
Kinh này được xin vì danh Giêsu. Mọi người thưa, «Amen».
«Thưa ông», Hồng Y nói trong khi nhìn
Giôsê, «tôi tên là Hồng Y Ricađô. Đây là
các đồng nghiệp của tôi. Tên của họ được ghi trước chỗ ngồi của họ. Xin ông vui
lòng cho biết tên và địa chỉ của ông?»
«Tôi tên là Giôsê. Gần đây tôi sống trong một
làng nhỏ ở Mỹ. Nhưng tôi không còn sống ở đó nữa. Địa chỉ hiện tại của tôi là
Đường Phôxa Phalavicini, Rôma, Ý Đại Lợi».
«Tên tộc ông là gì?», Hồng Y hỏi.
«Tôi chỉ có tên Giôsê», chàng đáp.
Nghĩ rằng không thể
hỏi thêm được gì nữa, Hồng Y tiếp, «Giôsê,
chúng tôi có đây những báo cáo dài về việc ông thảo luận các vấn đề thần học với
những người Công giáo thuộc một số giáo xứ. Có đúng vậy không?»
«Thưa Hồng Y, tôi không hiểu ngài muốn nói gì
về thần học, tôi không bao giờ chủ ý nói về những vấn đề thần học. Tôi chỉ làm
nghề chạm gỗ. Khi khách hàng đến thăm tôi, thì chúng tôi nói chuyện. Chúng tôi
nói đủ thứ chuyện. Chúng tôi nói về dân chúng, về những vấn đề của họ, về Thiên
Chúa, và về những vấn đề họ đương đầu trong khi họ cố gắng thực hiện thánh ý của
Thiên Chúa. Tôi là một người tầm thường, và tôi chỉ nói cách đơn sơ và thành thực
khi thiên hạ hỏi tôi điều gì».
«Khi ông nói về Thiên Chúa, về những gì của
Thiên Chúa và về Giáo hội, đó là thần học. Ông có nói về những điều đó không?»,
Hồng Y Ricađô hỏi.
«Khi dân chúng quan tâm và băn khoăn về tôn
giáo và hỏi tôi nghĩ thế nào, thì tôi trả lời cho họ», Giôsê trả lời.
«Ông bảo họ thứ gì?».
«Tôi bảo họ Giêsu đến để mang lại ý nghĩa cho
đời sống của con người, và cái sứ điệp đó phải cho họ niềm an vui. Họ không nên rối rắm, sợ hãi và cảm thấy tội lỗi
vì sứ điệp của Giêsu».
«Ông chỉ nói với họ có bao nhiêu thôi sao?»,
một giám mục tuổi trung tuần hỏi.
«Không. Dân chúng hỏi tôi nghĩ thế nào về tôn
giáo ngày nay, tôi đã thành thực bảo họ».
«Ông bảo họ thứ gì?», vị giáo chủ hỏi tiếp.
«Tôi bảo họ rằng tôn giáo không nên tách rời
với đời sống. Nó là sự sống của họ, sống tốt hay sống xấu. Giêsu bảo dân chúng
rằng họ được tự do và họ nên yêu mến mối liên hệ của họ với Thiên Chúa, và tìm
thấy an vui trong đời sống. Tuy nhiên thường thì sứ điệp của Giêsu được giảng dạy
như một mớ tín điều, như những lề luật cứng nhắc phải tuân giữ, nếu không sẽ bị
phạt nặng nề. Điều đó đã phá hủy cái vẻ đẹp của sứ điệp của Giêsu và làm cho
dân chúng sợ hãi mà xa lánh Thiên Chúa».
«Ông ám chỉ Giáo hội khi ông bảo dân chúng điều
đó phải không?», một trong những thần học gia hỏi.
«Tôi ám chỉ những ai dạy sứ điệp của Giêsu
cách đó. Giáo hội dạy những sự đẹp đẽ, nhưng chỉ trên giấy tờ. Tình yêu của
Thiên Chúa đã không được giảng dạy đúng cách, cái vẻ đẹp của đời sống của Giêsu
cũng bị như thế, do đó dân chúng lớn lên mà không được biết Thiên Chúa yêu
thương và chấp nhận họ như một người cha hay người mẹ yêu thương chấp nhận một
đứa con thành tâm mặc dù nó có ương ngạnh. Giáo hội phải là sự hiện diện sống động
của Chúa Kitô giữa các con cái của Thiên Chúa, tuy nhiên thường thì dân chúng
chỉ thấy cái lạnh nhạt và tự phụ của những chủ chăn nóng nảy không biết thông cảm
với dân chúng khi họ bị xúc phạm hay sa ngã»
«Ông nói mọi linh mục là như thế phải không?»
một thần học gia trẻ tuổi và hói đầu hỏi.
«Dĩ nhiên là không», Giôsê đáp. «Có những linh mục hiến cả hồn xác để phục vụ
Thiên Chúa, nhưng số đó không có được bao nhiêu. Có quá nhiều vị lại hưởng cái
uy tín và danh dự của chức linh mục và, giống như những người Pharisêu ngày xưa,
họ thích chỗ danh dự nơi công cộng và quyền hành do địa vị ban. Họ coi dân
chúng như bầy tôi đặt đâu phải ngồi đó và bảo chi phải nghe. Như vậy là xúc phạm
không những đến dân chúng, mà đến cả Thiên Chúa nữa. Còn các giám mục thì thích
hành động như các thủ lĩnh quốc gia và muốn có hết mọi sự, nhưng các ông lại bỏ
rơi những cộng đồng Kitô giáo địa phương đang khao khát được hướng dẫn và khao
khát tìm ý nghĩa của đời sống làm dân Thiên Chúa. Họ lại bị những chủ chăn vô
tình và tự phụ cai trị, các ông chỉ làm khổ đoàn chiên và gây thiệt hại lớn lao
cho dân Chúa trong khi các ông lại an nhàn. Đó là vì cộng đồng Kitô giáo thực sự
không quan trọng đối với Giáo hội. Giáo hội đã quá bận tâm với các tổ chức bác
ái không cần thiết. Đáng lẽ phận sự của các vị lãnh đạo tôn giáo là khuyến
khích việc bác ái, chứ không phải bỏ rơi các cộng đồng Kitô giáo để tổ chức những
công việc riêng to lớn. Công việc chính của giám mục là dẫn dắt và chỉ đạo các
vị chủ chăn địa phương, nhưng họ lại dành ít thì giờ để chia sẻ gánh nặng và
khó khăn của các cộng đồng Kitô giáo.»
«Đi xa hơn tí nữa, Giôsê», một linh mục
già ranh mãnh hỏi, «ông nghĩ đây có phải
chỉ là trường hợp cá nhân, hay đây là lề lối Giáo hội?»
«Tôi nghĩ có thể là cả hai. Có quá nhiều vị cần
quyền lực và địa vị để biện hộ cho công việc của mình. Lòng ham muốn địa vị xem
ra quá ăn sâu trong Giáo hội và công việc điều hành các tổ chức, đã cho thấy cảm
tưởng đó.»
«Ông có chống lại thẩm quyền không?», cũng
linh mục ấy hỏi.
«Không, cần có thẩm quyền, nhưng phải hiểu ý
nghĩa của thẩm quyền cho chính xác. Giêsu hiểu thẩm quyền khác xa với cái thẩm
quyền mà thế gian hiểu. Các vị lãnh đạo của Giáo hội rất sốt sắng thi hành thẩm
quyền như thế gian hiểu hơn là như chính Giêsu hiểu».
«Ông xem ra biết rất nhiều về những gì Giêsu
đã dạy và những gì ngài đã không dạy», một thần học gia trẻ tuổi và dễ tức
giận hỏi cách châm biếm. «Xin ông nói cho
biết cái loại thẩm quyền nào mà ông nghĩ là Giêsu đã dạy.»
«Giêsu dạy rằng các tông đồ và chủ chăn phải
như đèn soi bóng tối, đem ánh sáng cho dân chúng và khuyến khích họ, phải đối xử
với họ không phải thấp kém như những bầy tôi để cai trị, nhưng như là anh chị
em cần được thông cảm cách nhân hậu. Có lúc, nhưng chỉ hiếm hoi thôi, cũng cần
cứng rắn khiển trách nếu họ làm hại đến những người khác. Điều đó khác với việc
xem dân chúng như bầy tôi bị trị với những điều hành và luật lệ như các viên chức
dân sự đối xử với bầy tôi của họ. Cái loại thẩm quyền đó không có chỗ đứng
trong Giáo hội. Nó hạ thấp dân chúng và tạo nên một hệ thống giai cấp rất xa lạ
với tư tưởng của Giêsu. Giêsu đã thấy khuynh hướng đó nơi các vị tông đồ. Vì thế
ngài đã rửa chân họ vào đêm trước khi ngài chết, để in vào tâm trí họ bài học
khiêm nhường và đừng nên thống trị đoàn chiên, nhưng phải làm tôi tớ cho đoàn
chiên. Không mấy kẻ muốn làm tôi tớ».
Hồng Y Ricađô nhìn
Giôsê rất kỹ trong cuộc đối chất này và thấy chàng khiêm tốn, đơn sơ và hoàn
toàn tránh xa cãi vã. Chàng không có vẻ độc đoán tí nào, nhưng thực sự tin tưởng
ở điều mình nói. Nhưng đấy chẳng phải là lề lối của những nhà cải cách cấp tiến
sao? Lề lối kêu gọi dân chúng cũng đơn sơ và thành thật như thế? Tuy nhiên
Giôsê, vì một lý do nào đó, không thuộc hàng ngũ này. Có một sự hiểu biết chân
thật và một mối quan tâm nơi Giôsê làm cho chàng khác xa với những người cấp tiến
và bất mãn. Nhiều năm kinh nghiệm của Hồng Y dạy cho ông thấy và hiểu được con
người khi phỏng vấn họ. Ông nghĩ là vị linh mục trẻ đã không thấy điều mà ông
nhìn thấy nơi Giôsê. Đối với họ chàng chỉ là một người thông minh cần phải đánh
đổ hay lật mặt là gian xảo và nguy hiểm cho Mẹ Thánh Giáo Hội. Ông không thích
cái lối khảo cung này tí nào. Nhưng ông không làm gì được, vì ai cũng được tự
do phát biểu.
Một trong các vị
giám mục đang lắng nghe hỏi Giôsê một câu nữa: «Thưa ông, tôi thấy ông rất quan tâm về Giáo hội. Có phải vì ông quan
tâm về dân chúng hay là vì ông tức giận các vị lãnh đạo của Giáo hội mà ông có
ý kiến như thế?»
Câu hỏi ấy rất tinh
quái, Giôsê cũng biết vậy. Nó nhắc chàng nhớ đến những luật sư ngày xưa chuyên
môn gài bẫy. «Tôi e rằng cái tinh thần của
tình yêu của Giêsu đã bị thay thế bằng pháp luật».
«Ông có nghĩ rằng Giáo hội có thẩm quyền để
làm luật và ban hành luật không», giám mục hỏi tiếp.
«Giêsu ban quyền để cầm buộc và tháo mở, nhưng
đó là một thẩm quyền cần được dùng đến cách khôn ngoan và sinh lợi cho đoàn
chiên. Nó không phải để dùng cách độc đoán hay thường xuyên đối với Kitô hữu».
«Ông có nghĩ là nó được dùng cách độc đoán
không?», giám mục hỏi.
«Khi nhìn lại lịch sử thì rất khó mà kết luận
cách khác».
«Nhưng thời gian đã thay đổi», giám mục
tiếp.
«Hoàn cảnh có thay đổi, nhưng lòng ham muốn
kiểm soát và thống trị được diễn ra dưới những hình thức khác thôi».
«Ông có vẻ khôn khéo lên án luôn cả đức Thánh
Cha», giám mục nói.
«Tôi chưa bao giờ gặp đức Thánh Cha, nhưng nếu
cứ xét những cái chung quanh đây mà tôi thấy từ lúc tôi đến Rôma, thì khó mà thấy
được tinh thần khiêm tốn hướng dẫn đời sống của những ai sống ở đây.»
«Có phải đấy là lời công kích đức Thánh Cha
không?», một linh mục hỏi.
«Không phải tí nào cả. Tôi chưa bao giờ gặp
ngài. Tôi nghe nói ngài là một người tốt và là một tông đồ tận tâm», Giôsê
nói, chàng cẩn thận rào trước đón sau.
«Ông nói đến những cái chung quanh đây. Ông
muốn nói cái gì với chúng tôi? Có phải ông nghĩ là những cái chung quanh đây
không hợp với những gì Giêsu dạy không?», cũng linh mục ấy hỏi.
«Cha nói đúng. Nhà cửa người ta ở phản ảnh tư
tưởng của họ. Giêsu dạy các tông đồ và môn đệ của ngài phải sống khiêm tốn và
đơn sơ. Mặc dù những người sống và làm việc ở đây không xây những dinh thự này,
nhưng họ chọn để sống và làm việc ở đây, cũng như sống phù hợp với những vật
chung quanh đây».
«Ông muốn nói gì?», linh mục nói một cách
châm biếm.
«Cái kiểu không mấy khác lâu đài vua chúa và
những kẻ cai trị thế gian, điều mà Giêsu cực lực cảnh cáo chống lại», Giôsê
đáp.
«Như vậy ông nghĩ rằng những ai sống ở đây, kể
cả đức Thánh Cha, có một lối sống mà Giêsu cấm?», linh mục hỏi.
«Tôi không dám đoán xét lối sống của quí vị. Chỉ
quí vị mới biết mình có sống thật với điều Giêsu dạy không».
«Nhưng ông tuyên bố rằng ai sống và làm việc
trong môi trường này thì nhất thiết sống theo kiểu của nó. Đức Thánh Cha sống
và làm việc ở đây, như vậy theo sự lý luận của ông thì ngài sống cái lối sống
không hợp với tinh thần của Giêsu», linh mục nói cách đắc thắng.
«Cha nói điều đó, chứ không phải tôi. Một ông
vua khiêm tốn có thể sống trong một cung điện mà vẫn có thể là một người khiêm
tốn và không bị ràng buộc với của cải của ông. Một người kế vị Phêrô có thể sống
ở đây, mà vẫn có thể sống khiêm tốn, mặc cho môi trường này. Tuy nhiên những bức
tường này nói lên một sứ điệp, đó là sứ điệp của quyền lực và địa vị thế trần. Quyền
lực và địa vị đó tạo nên hình ảnh của người sống ở đây, vì thế nó có thể mang đến
hai sứ điệp, một thật và một ngoài ý muốn. Tính chất lờ mờ đó làm do dân chúng
rối rắm và che đi cái tinh túy của sứ điệp của Giêsu».
Giôsê rất sắc bén. Họ
không bắt bẻ được chàng là rối đạo hay phản loạn. Điều rõ ràng là Giôsê đã mạnh
bạo chỉ trích cái lối sống và lối hành sự của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Chàng
không có cách nào tránh được cái cảm tưởng đó, và chàng cũng không muốn tránh
điều đó. Chàng đến đây vì một lý do, không phải chỉ để tấn công hay chống đỡ. Chàng
có một mục đích, và mục đích đó phải đạt được.
Cuộc thẩm vấn tiếp tục.
«Khi ở trong khu phố của ông, ông có nói
những vấn đề này với dân chúng khi họ đến thăm ông không?», một giám mục hỏi.
«Không, không có lý do gì cả», Giôsê trả
lời.
«Ông có bảo dân chúng rằng Giêsu không bao giờ
muốn đạo được giảng dạy như ngày nay không», cũng giám mục đó hỏi.
«Có».
«Ông có bảo dân chúng rằng, vì là con cái của
Thiên Chúa, họ được tự do và không ai có thể lấy đi khỏi họ cái tự do ấy không?»,
giám mục hỏi tiếp.
«Có».
«Và ông có bảo họ rằng các linh mục của họ phạm
đến những điều Giêsu dạy do lề lối họ cai quản dân chúng không?»
«Không, điều đó chỉ thêm rối rắm cho dân
chúng và không lợi gì».
«Nhưng ông có bảo dân chúng rằng Giêsu không
bao giờ muốn tôn giáo trở thành như ngày nay không».
«Có».
«Và nói như thế tức là ông bảo dân chúng rằng
tôn giáo không được dạy đúng. Có đúng không?», giám mục tiếp.
«Tôi không nói như vậy», Giôsê bình thản
đáp, chàng bực tức vì ông đặt những lời đó vào miệng chàng.
«Nhưng nó rõ ràng hàm ý như vậy. Còn có thể
rút ra kết luận nào hơn nữa?».
«Tôi không nói tại sao tôn giáo trở nên thế
này, hay lỗi tại ai, tại cha mẹ hoặc tại các linh mục hay thày giáo». Rồi
Giôsê hỏi vặn lại, «Tai sao có nhiều người
có những ý tưởng sai lầm về tôn giáo?»
«Chúng tôi là thẩm vấn», giám mục nhắc với
Giôsê.
Những vị trẻ tuổi
trong đoàn mỗi lúc càng xúc động. Những vị có tuổi hơn thì đã thường dự những
phiên toà như thế này, nên họ vẫn bình tĩnh. Họ đã quen với những lời bóng gió
hay ám chỉ. Điều họ quan tâm trước nhất là xem thuyết trình gia nào đó có là một
đe doạ cho đức tin của dân chúng không, và xem mối liên hệ của họ đối với Giáo
hội và các vị lãnh đạo có thù nghịch và đáng ngại không. Những vị trẻ tuổi thì
nghiên cứu từng chi tiết thần học.
Thần học gia trẻ tuổi
và hói đầu hỏi câu tiếp theo. «Giôsê, lúc
nãy ông nói Giáo hội cai trị bằng luật pháp và sắc chỉ. Ông có thể cho một thí
dụ về điều ông tuyên bố không?»
«Thí dụ như trường hợp hôn nhân. Giêsu không
bao giờ bảo người Kitô giáo phải cưới nhau trước mặt một tông đồ hay linh mục. Nhưng
quí vị ra luật rằng nếu một người Công giáo không cưới xin trước mặt một linh mục,
hoặc trước mặt một người khác mà không có phép chuẩn, thì hôn nhân ấy không
thành và cặp vợ chồng sống trong tội lỗi. Như thế là ngạo mạn và không cho dân
chúng được tự do tự quyết định lấy. Nhiều người có thể có lý do chính đáng
không muốn cưới xin trước mặt một linh mục. Họ có thể không nắm vững đức tin của
mình, hoặc đức tin của họ chưa trưởng thành đủ. Hoặc có thể họ ý thức rằng mình
không phải là người Kitô tốt, nên lễ cưới theo phép đạo chỉ là giả hình. Làm
sao quí vị có thể nói rằng Thiên Chúa không chấp nhận hôn nhân của họ, hoặc nói
rằng họ sống trong tội lỗi? Có thể là một cử chỉ đẹp đẽ khi một đôi bạn đang sống
trong đức tin và trong tình yêu của Thiên Chúa, trao nhau lời thề trăm năm trước
sự hiện diện của cộng đồng Kitô giáo hay một linh mục. Nhưng nếu cưỡng bách họ
làm việc đó, thì không được lành mạnh và khích lệ mấy; nhất là khi đời sống của
hai người gây gương mù gương xấu, thì đấy chỉ là trò hề. Tôn giáo chỉ đẹp đẽ
khi nó tự do phát xuất tự tâm khảm. Chính thế mà quí vị nên hướng dẫn và khích
lệ chứ không phải làm luật quy định lối sống. Và dọa rằng Thiên Chúa giận khi
dân chúng không tuân theo lề luật của quí vị, là một sự hiếp đáp vô luân và
không làm đẹp lòng Thiên Chúa tí nào. Quí vị là chủ chăn và là người hướng đạo,
chứ không phải là quan án tối cao xét xử lối sống của con người. Điều đó chỉ
thuộc về Thiên Chúa».
Mọi người đều sững sốt
khi nghe nói thế. Vị Hồng Y nhăn mặt nhưng cũng chăm chú nghe, ông nghĩ rằng
Giôsê không sai lắm. Thật ra không có lý do gì mà Giáo hội phải đặt ra lề luật
khắc khe về hôn nhân, nó chỉ tạo nên sầu khổ cho nhiều người. Tuy nhiên chàng
đang dẫm chân lên chỗ nguy hiểm, và điều này có thể làm hại đến chàng.
«Còn thí dụ nào nữa không?» cũng linh mục
ấy hỏi.
«Thí dụ một cặp vợ chồng đang phá hoại nhau. Trong
quá khứ quí vị nói rằng không được ly dị. Nhưng giờ đây quí vị bảo sẽ ban cho họ
đặc ân hủy bỏ hôn phối để họ lập gia đình lại. Và quí vị căn cứ quyết định của
mình trên căn bản không có hôn phối thực sự giữa hai người, và nói rằng mối
liên hệ giữa họ là nguy hại. Trong khi tiến hành công việc, quí vị khảo sát những
chi tiết mật thiết của cuộc đời tình ái của họ, và gọi người làm chứng để bàn
thảo điều họ biết về sự liên hệ của cặp vợ chồng. Tuy nhiên quí vị thú nhận rằng
quí vị không ban đặc ân hủy bỏ hôn phối, nhưng chỉ quyết định là giữa hai người
không có một sự liên hệ đáng kể để chung sống. Quí vị không nghĩ rằng cặp vợ chồng
đó đã biết chuyện ấy sao? Và có ích gì khi linh mục hạch hỏi những chi tiết của
đời sống tình ái của dân chúng? Đó là điều các người Pharisêu đã làm để kiểm
soát dân chúng và bắt họ trả lẽ về lối sống của mình».
«Và nếu một cặp vợ chồng không đến với quí vị
mà ly dị và lập gia đình lại, thì quí vị bảo rằng họ phạm tội ngoại tình. Làm
sao quí vị có thể bảo rằng họ phạm tội ngoại tình, nếu tận đáy lòng họ biết hôn
nhân trước của họ không được lành mạnh và hủy diệt họ? Có phải chỉ vì quí vị
không được phép xem họ có ăn ở với nhau được không? Và làm sao quí vị hy vọng
có thể kiểm soát được hàng triệu mối tơ vương? Các vị cắt đặt hàng ngàn người
làm công việc không mấy giá trị này, trong khi không biết bao triệu linh hồn cần
được nghe giảng Phúc âm và không biết bao triệu Kitô hữu xa cách Thiên Chúa vì
bị bỏ rơi? Không tốt hơn sao, nếu quí vị để cho Thiên Chúa đoán xét những chi
tiết thân mật của đời sống của dân chúng, còn quí vị thì lo việc đem sứ điệp của
Giêsu đến cho hàng triệu người cần nghe ngài?»
Lối lý luận của
chàng đánh bại đối phương. Thẩm phán đoàn phải suy nghĩ khi Giôsê nói, họ ý thức
rằng có nhiều cái đúng trong điều chàng nói, và chàng cũng không có chút tự phụ
hay chua cay. Lối đối xử của chàng cho thấy chàng rất quan tâm về Giáo hội và về
công việc của Giáo hội. Điều đó thúc đẩy vị Hồng Y hỏi câu tiếp theo.
«Giôsê, ông nghĩ thế nào về Giáo hội?»
«Giáo hội là hiền thê của Giêsu, là bạn đồng
hành được tuyển chọn để đem tình yêu của Thiên Chúa và mối quan tâm của ngài đối
với dân chúng. Giáo hội là sự hiện diện sống động của Thiên Chúa qua dòng lịch
sử. Và chính vì thế mà Giáo hội phải cố gắng hết sức để tỏ ra sự dịu hiền và
quan tâm của Giêsu đối với những ai đau khổ, chứ không phải chỉ lo đến quyền
làm luật và xét xử, vì nó thường chỉ làm cho dân chúng sợ hãi và đẩy họ xa
Thiên Chúa».
Vị Hồng Y rất thán
phục, mặc dù ông không nói gì. Ông cảm thấy căng thẳng với lối tố tụng và tỏ ra
bực bội khi ông bẻ tay trên đùi. Ông là một người có tuổi và không đương đầu nổi
nữa với bầu khí căng thẳng này. Giôsê thì khác với mọi người. Chàng có lòng tốt
và rất quan tâm, nên điều chàng nói có ý nghĩa hơn. Chàng không chủ tâm phá hoại
hay đánh đổ, nhưng cốt làm cho người ta suy nghĩ, và đó là điều tốt.
Một trong các vị trẻ
tuổi hỏi chàng cách sống sượng. «Nếu ông
có ý nghĩ tốt đẹp về Giáo hội như thế, tại sao ông lại hay chỉ trích?»
«Bởi vì tôi quan tâm», Giôsê nói cách
chán chường.
«Nếu ông quan tâm, tại sao ông gây xáo trộn
như thế ở địa phương ông sống?»
Giôsê chưa kịp trả lời,
thì vị Hồng Y bị lên cơn và té xỉu khi lau mặt với khăn tay. Đầu ông dập mạnh
vào chiếc bàn cứng phủ nỉ. Mọi người đều kinh hãi. Hai giám mục hai bên ông
quay lại, nhưng không biết phải làm gì.
Giôsê im lặng và
bình tĩnh rời ghế để đi đến bàn, chàng cúi xuống, đặt tay lên đầu ông, vuốt mặt
và má ông. Cánh tay trái của Hồng Y thòng xuống yếu ớt; một bên mặt của ông lõm
xuống và méo mó. Ông bị xỉu.
Khi Giôsê sờ ông, vị
Hồng Y cảm thấy tay chàng vuốt ve ông và ông bắt đầu cảm thấy thân thể ông sống
lại và tay hết tê lệt. Ngay lúc đó một thần học gia trẻ tuổi bước tới đẩy Giôsê
qua một bên và nói, «Tránh ra, về chỗ ngồi»,
ông đẩy mạnh quá suýt làm Giôsê mất thăng bằng.
Lúc ấy vị Hồng Y ngẩng
đầu lên được và thấy việc đã xảy ra. Mắt ông và mắt Giôsê gặp gỡ trong phút chốc,
và vị Hồng Y hiểu. Trong đầu ông nảy ra một ý nghĩ, «Chúa ơi, có thể được không? Lịch sử có thể tái diễn được không?» Và
vị Hồng Y thấy mình trong vai trò linh mục thượng phẩm, và nhà thần học gia trẻ
tuổi là người đầy tớ đang vả vào mặt đấng Kitô. Ông cảm thấy hổ thẹn và bất lực.
Ông đã cảm thấy một
cái gì đẹp đẽ nơi Giôsê. Ông đã cảm thấy cái phẩm cách điềm đạm gần như uy
nghiêm của chàng, nhưng giờ đây ông mới hiểu hết. Những nhân vật khác của thẩm
phán đoàn biểu quyết gia hạn cuộc thẩm vấn, nhưng vị Hồng Y nói rằng ông không
sao. Ông nhìn Giôsê trong khi nói, rồi nhìn xuống hổ thẹn. «Cuộc thẩm vấn tiếp tục», ông nói. Từ
giây phút đó vị Hồng Y muốn tha bổng Giôsê và cố tìm đủ cách để xoay cái ý nghĩ
của thẩm phán đoàn. Tuy nhiên không có hiệu quả gì. Cuộc phỏng vấn kéo dài đến
sau trưa, rồi, khi mọi người đã thoả mãn với mọi tin tức thu lượm được, Hồng Y
tuyên bố chấm dứt phiên toà.
Khi mọi người bước
ra khỏi phòng, vị Hồng Y bước tới Giôsê và cám ơn chàng. Giôsê mỉm cười và bảo
ông đừng nói với ai. Một trong các giám mục hỏi chuyện hồng y, hai ông hăng say
nói chuyện với nhau, nhờ thế Giôsê bỏ đi được. Không ai để ý đến chàng nữa, một
khi phiên toà chấm dứt. Họ quan tâm đến chàng là vì nghề nghiệp và với tính
cách vô tư, và một khi xong việc, họ không màng đến chàng nữa, cũng không hỏi
chàng có đói không hoặc muốn uống gì không. Chàng chỉ là một vụ kiện. Đó là một
thí dụ nữa trong lối lo việc đạo một cách vô nhân đạo, nó đã trở thành lối sống
của nhiều người hiến dâng đời mình để theo đuổi một nghề nghiệp nơi tôn giáo. Dân
chúng không quan trọng, nhưng sự trung tín với tổ chức và thành công trong việc
tỏ ra lòng trung tín đó mới là quan trọng, nếu bạn muốn tiến thân.
Nhân viên ở bàn giấy
bảo Giôsê rằng nếu cần, chàng sẽ được gọi lại, vì thế chàng đừng đi xa chỗ trọ.
Giôsê đi ra công trường
nắng chói và tìm một nơi để ăn.
Sau bữa trưa, Hồng Y
Ricađô xin hội kiến với đức Thánh Cha. Điều này rất quan trọng. Ông được biết sẽ
gặp ngài lúc bốn giờ ba mươi trong thư viện của ngài. Ông nóng lòng nói cho
ngài công việc đã xảy ra.
Đức Thánh Cha vui vẻ
và chịu khó lắng nghe. «Thưa đức Thánh
Cha», Hồng Y bắt đầu, «
Con rất bực bội về
việc đã xảy ra trong phiên toà hôm nay. Nó khác với mọi cái con đã kinh nghiệm.
Anh chàng Giôsê, đó là tên anh ta cho biết, xem ra đơn sơ, không học vấn, nhưng
khi chúng con chất vấn anh thì anh tỏ ra là người hiểu biết sâu xa về những gì
của Thiên Chúa, và anh cũng được ơn soi sáng để hiểu biết, con xác tín như thế.
Con biết bản báo cáo nói rằng anh ta chỉ trích lề lối chúng ta điều hành Giáo hội,
nhưng con thấy rằng mọi điểm anh nêu lên hết sức là khôn ngoan, và có lẽ chúng
ta nên lắng nghe anh ta. Con cũng nghĩ rằng thẩm phán đoàn sẽ lên án anh ta, và
con thấy trước rằng nếu chúng ta làm thế thì lịch sử sẽ ghi lại đây là một giờ
phút đen tối trong Giáo Hội.
Đức Thánh Cha nhìn Hồng
Y khi ông nói. Ông đã sống lâu ở đây và đã làm việc tốt, nhưng tuổi tác ông đã
lớn. Ông luôn luôn là một người nhân hậu, nhưng người ta không thể điều khiển một
tổ chức như Giáo hội trên nhân hậu. Phải có trật tự và kỷ luật. Khi vị Hồng Y
nói xong, đức Thánh Cha bảo ông rằng ngài sẽ đọc bản tường trình trước khi quyết
định.
Hồng Y Ricađô biết
mình bị thoái thác, và ông nói với đức Giáo hoàng điều đã xảy ra với ông trong
phiên toà. Ngài nhã nhặn nghe và khôn khéo trình bày rằng, mặc dù đó là điều
quan trọng đối với Hồng Y, nó không dính dáng gì đến phiên toà và không nên để
nó ảnh hưởng đến quyết định. Hồng Y nghĩ là mình có thể nói chuyện với đức Giáo
Hoàng diện đối diện, tuy nhiên vai trò pháp lý của đức Giáo Hoàng là một ngăn
trở không thể vượt qua được. Vị Hồng Y xin đức Thánh Cha ít nhất là gặp Giôsê
và nói chuyện với chàng. Cuối cùng đức Giáo Hoàng đồng ý và cám ơn Hồng Y về mối
quan tâm của ông. Vị Hồng Y cám ơn và bước ra.
Comments
Post a Comment