18 Chương 18 - Phiên Toà
Chương 18
Phiên
Toà
Những biến cố
đưa đến cái chết của Đức Giêsu và các động lực bên sau thật là rối ren. Người
ta có cảm tưởng rằng những người trong cuộc cũng cảm thấy rối ren.
Để cho rõ
ràng hơn, chúng ta cần phải phân biệt những cáo trạng có thể gán cho ngài và
những cáo trạng thật sự đã gán cho ngài, cùng với những động lực muốn huỷ diệt
ngài. Các Phúc âm đã chứng kiến ba loại này: chẳng hạn Đức Giêsu có thể bị tố
là đã cố tình phạm ngày Sabát hoặc làm phù phép (dùng quyền lực của Satan mà
trử quỉ); ngài đã thực sự bị buộc tội vì xưng mình là Vua Cứu Tinh; và động lực
chính, theo Mátcô và Mátthêu, là lòng ganh tị. (Mc 15:10; Mt 27:18). Rất tiếc
là các Phúc âm không luôn luôn phân biệt rõ ràng như thế. Những cáo trạng đáng
lẽ phải gán lên ngài thì được kể lại như là thực sự gán lên ngài (tỉ dụ: lời
phạm thượng, Mc 14:54) và những cáo trạng thật sự đã gán lên ngài thì lại xem
như là động lực bên sau (tỉ dụ: ngài tự xưng là Vị Cứu Tinh Mc 14:62-64), vì
thế mà gây nên nhiều rối ren.
Thứ đến,
chúng ta cũng cần phân biệt vai trò của các lãnh đạo Dothái và của chính quyền
Lamã. Có hai toà án: Thượng Hội Đồng, hay toà án Dothái, gồm vị thượng tế và
bảy mươi giáo sĩ trưởng, các kỳ lão và các kinh sư; toà án Lamã, do Philatô chủ
toạ như là quan toàn quyền. Đức Giêsu bị đưa ra xử, bị án và xử tử do toà án
Lamã. Nhưng những người viết Phúc âm, cũng như những Kitô hữu đầu tiên, đã cố
đổ tội cho các người lãnh đạo Dothái về cái chết của Đức Giêsu. Không phải họ
sai, nhưng lối đổ tội đó đã gây nên nhiều hiểu lầm - họ cho cảm tưởng rằng cuộc
thẩm vấn do các lãnh đạo Dothái là một phiên toà.
Họ không cố ý
đánh lừa hay bóp méo sự kiện lịch sử. Họ chỉ muốn độc giả hiểu được những gì đã
xẩy ra. Bên ngoài thì xem ra người Lamã có tội, nhưng thật sự người Dothái mới
là thủ phạm. Họ không có chủ ý bài Dothái, cũng không thiên tư người Lamã, họ
chỉ thất vọng. Sự thật của vấn đề là Đức Giêsu đã khiếu nại đến một quốc gia thời
đó và quốc gia này đã khước từ ngài. Đặt mình trong trường hợp đó chắc nhiều
người cũng đã làm thế.
Việc đã xẩy
ra làm sao?
Đức Giêsu bị
đưa ra toà và bị án tử hình là vì ngài xưng mình là Vị Cứu Tinh hay là Vua
Dothái. Đó là điều Philatô hỏi ngài và đó cũng là bản án treo trên thập giá
buộc tội ngài. Mọi cái khác chỉ là phỏng đoán: ngài có thể bị cáo và bị lên án.
Thượng Hội Đồng có thể buộc tội ngài là một kinh sư giả hoặc một ngôn sứ giả,
hoặc là một đứa con phản nghịch (Thứ Luật 21:20-21), hoặc ngài đã cố tình phạm
ngày Sabát hay làm bùa phép. Các Kitô hữu đầu tiên nghĩ rằng một số người
Dothái đã tố ngài là phạm thượng vì ngài đã tha tội (Mc 2:7) và đã xưng mình là
Vị Cứu Tinh, là Con Thiên Chúa hoặc là «Con
Người» (Mc 14:61-64), đồng nghĩa với việc xưng mình ngang hàng với Thiên
Chúa (Gio 5:18; 10:33, 36; 19:7). Họ cũng nghĩ rằng có thể đó là những lời buộc
tội ngài trước Thượng Hội Đồng (Mc 14:61-64) hoặc có thể đó cũng là lý do mà
dân chúng yêu cầu Philatô đóng đinh ngài (Gio 19:7).
Theo Luca,
người Do thái tố cáo ngài, cũng như người Lamã đã có thể buộc tội ngài, có hành
động phá hoại và chống lại việc nộp thuế cho Xêda (23:2). Một cách nào đó có
thể nói rằng hành động và lời giảng dạy của ngài nhằm lật đổ chính quyền hiện
tại. Ngài muốn thay đổi xã hội từ cao xuống thấp. Về vấn đề thuế má, như chúng
ta đã thấy, ngài tránh không đứng về phía nào vì đó chính không phải là vấn đề.
Như thế có
nghĩa là mặc tất cả những lời tố cáo ngài, Thượng Hội Đồng đã không xử tội ngài
mà chỉ có người Lamã mới xử tội ngài vì ngài đã xưng mình là vua dân Dothái.
Tại sao? Tại sao họ hành động như thế?
Philatô là
một quan toàn quyền tàn nhẫn. Ông khiêu khích dân chúng và khi họ chống đối thì
ông không ngần ngại tập trung họ lại mà giết hết. Những ngưởi bị xem là phản
động thường bị giết mà không có án. Theo một triết gia Dothái cùng thời là
Philô, thì Philatô «là con người cứng
cỏi, ương bướng và khó tính». Ông kể tội của Philatô là «ăn hối lộ, bạo ngược, cướp bóc, cộc cằn, cáo
gian, giết mà không cần án và cực kỳ tàn bạo».
Đó là hình
ảnh được chứng minh qua ba biến cố dưới thời Philatô được sử gia Josêphu ghi
lại. Biến cố thứ nhứt là những phù hiệu Lamã mà người Dothái xem là bụt vì
chúng mang hình ảnh của hoàng đế và một số hình ảnh khác. Philatô ra lệnh đem
các phù hiệu đó đến Giêrusalem, mặc dù từ trước đến giờ chưa ai làm. Dân chúng
phản đối và yêu cầu ông dẹp đi. Philatô từ chối và tập trung họ lại để giết
hết. Dân chúng không phản ứng nhưng sẵn sàng tử đạo. Ông đành nhượng bộ vì tàn
sát dân chúng cách dã man không lợi cho chính trị. Tuy nhiên trong lần đụng độ
lần thứ hai giữa Philatô và dân chúng khi dùng tiền của Đền Thờ mà xây mương
dẫn nước, ông tập trung dân chúng lại và ra lệnh dùng dùi cui mà đánh họ. Một
số người chết và một số bị thương nặng. Biến cố thứ ba làm ông phải mất chức.
Ông bị triệu về Lamã để trả lẽ. Đó là khi một nhóm người Samaritanô tụ tập ở
núi Gadim để tìm những bình thánh mà họ nghĩ rằng Maisen đã giấu ở đó. Philatô
đưa quân đội đến giết tất cả.
Philatô hình
như rất sợ dân chúng tụ tập. Mỗi lần người Dothái (hay Samaritanô) tụ họp vì
một lý do gì, ông sợ sẽ có phản loạn chống lại Lamã.
Philatô cũng
được mô tả như thế trong một biến cố khác. Luca nói rằng «những người Galilê bị Philatô giết và lấy máu hoà với các vật tế»
(13:1) - đó là cuộc tàn sát trong Đền Thờ.
Dĩ nhiên đây
không phải là hình ảnh Philatô mà chúng ta đọc thấy trong các bản văn về phiên
toà của Đức Giêsu. Rõ ràng là Philatô được làm nhẹ tội hơn để làm nổi bật tội
trạng của những người Dothái về cái chết của Đức Giêsu.
Nhưng Philatô
nghĩ gì về Đức Giêsu?
Chúng ta biết
một số quan toàn quyền khác ít tàn ác hơn Philatô đã nghĩ thế nào về các ngôn
sứ hoặc các Vị Cứu Tinh tiềm năng. Vào năm 45 Tây Lịch, có một ngôn sứ tên là
Têđa dẫn đầu một đám đông người Dothái gồng gánh của cải tiến về phía sông
Giođan, ông hứa sẽ rẽ nước cho họ qua để tiến vào sa mạc, giống như Maisen đã
làm. Quan toàn quyền Cupiut Phađu đưa một đoàn kỵ binh đến giết đi một số và
bắt giam một số. Têđa bị chặt đầu. Không có bằng chứng nào nói Têđa là người
Dêlót.
Cũng có câu
chuyện một sứ ngôn Dothái từ Aicập tụ tập dân chúng trên núi Ôliu vào năm 58 và
nói rằng ông sẽ ra lệnh cho tường thành Giêsrusalem sẽ sụp. Quan toàn quyền
Antôniô Phêli phản ứng ngay lập tức. Nhiều người Dothái trong đám đó bị giết,
nhưng vị ngôn sứ này chạy thoát được. Về sau một viên chức Lamã nghĩ lầm rằng
Phaolô là vị ngôn sứ đó mà ông cho là người đứng đầu bốn ngàn người Sicari hay
quân khủng bố (CV 21:38). Họ không phải là những người Dêlót mặc dù vị ngôn sứ
lãnh tụ của họ cũng có những ý đồ giống như người Dêlót.
Dẫu Philatô
có biết ý định của Đức Giêsu, dẫu ông có biết «vương quốc» mà Đức Giêsu đang mong đợi là gì, thì ông cũng muốn
giết ngài. Philatô xem Đức Giêsu là con người rất nguy hiểm về chính trị, dẫu
ông có biết Đức Giêsu không muốn thành lập một «vương quốc» bằng vũ lực, cũng như Hêrốt đã xem Gioan Tẩy giả là một
người nguy hiểm về chính trị và thấy cần phải bắt giữ ông, mặc dù ông không
dùng đến vũ lực. Chống đối bằng vũ lực không phải là một đe doạ độc nhất đối
với chính quyền Lamã. Mọi phong trào bình dân nào nhằm đảo lộn tình thế, nhất
là có khuynh hướng tôn giáo, đều bị xem là nguy hiểm.
Đó chính là
điều Philatô nghĩ, dẫu ông có biết ý định thật của Đức Giêsu. Nhưng Philatô có
biết gì về Đức Giêsu không?
Ông ta chắc
có nghe biết về biến cố ở sân Đền Thờ khi Đức Giêsu đuổi các con buôn. Có một
đơn vị đồn trú Lamã canh chừng sân Đền Thờ. Khi Phaolô gây xáo trộn bên ngoài
cổng sân Đền Thờ thì binh sĩ can thiệp ngay (CV 21:27-36). Việc Đức Giêsu «thanh tẩy» sân Đền Thờ không thể im lìm
qua đi được. Việc này cũng đủ để Philatô nghi ngờ Đức Giêsu và ý định của ngài.
Tuy nhiên chúng ta không biết chắc đơn vị đồn trú có báo cáo với Philatô về
việc này hay không.
Trong phiên
xử Đức Giêsu Philatô ít nhất phải biết ngài là một lãnh tụ có nhiều ảnh hưởng
và nhiều người xem ngài là Vị Cứu Tinh hay Vua Do thái tương lai. Nhưng Philatô
có biết điều đó trước phiên xử không? Hình như ông có biết.
Gioan cho
biết Đức Giêsu bị bắt do một nhóm gồm cận vệ Dothái và binh sĩ Lamã (18:3,12).
Gioan thường có khuynh hướng làm nhẹ tội người Lamã. Chính vì thế mà khi ông
thuật lại các binh sĩ Lamã và viên đội trưởng có nhúng tay, thì phải là việc có
thật. Không người Dothái nào, kể cả vị thượng tế, có thể ra lệnh cho binh sĩ
Lamã bắt ai. Philatô phải nhúng tay vào. Philatô muốn bắt Đức Giêsu. Ông phải
biết về Đức Giêsu trước phiên xử.
Chúng ta có
thể kết luận rằng nếu Philoatô không nghi ngờ Đức Giêsu và ý định của ngài khi
xảy ra biến cố sân Đền Thờ, thì ông cũng phải biết về Đức Giêsu trước phiên xử.
Như thế chính
quyền Dothái đóng vai trò gì trong vụ này?
Vị thượng tế
được Lamã bổ nhiệm. Ông được hành quyền và tham gia vào việc quản trị xứ sở. Cả
những hoạt động tôn giáo của ông cũng bị Lamã kiểm soát vì họ ban áo mũ cho
ông. Vị thượng tế và các cộng sự viên tham gia tích cực vào việc hành chánh
quốc gia và hoàn toàn lệ thuộc Lamã. Phận sự của họ là giữ gìn an ninh, nhất là
trong các dịp đại lễ.
Họ có bết
nhiều về Đức Giêsu không? Có lẽ rất ít. Họ ít ra cũng biết như Philatô biết,
nhưng không đủ để buộc tội ngài theo luật Dothái (nếu họ muốn đem ngài ra
Thượng Hội Đồng). Họ phải biết Đức Giêsu thúc giục dân chúng tin vào «vương quốc» của Thiên Chúa và họ biết
một số người tin rằng ngài là Vị Cứu Tinh. Vị thượng tế và các cộng sự viên của
ông xem những lời đồn đại như thế là một đe doạ cho nền hoà bình với Lamã. Họ
là những người hành chính, lo đến thủ đoạn hơn là sự thật.
Điều này thấy
rõ trong những tính toán của họ về Đức Giêsu trước khi ngài bị bắt. Chính Gioan
cho chúng ta biết điều đó như sau:
«Chúng ta phải làm gì bây giờ? Nếu chúng ta
để hắn tiếp tục hoạt động thì mọi người sẽ nghe theo hắn và quân Lamã sẽ đến mà
tước đoạt chỗ và quốc gia của chúng ta.» Caipha là vị thượng tế năm ấy nói,
« ... thà một người chết ... còn hơn là
cả nước bị hủy diệt.» (11:47-50)
Họ không quan
tâm gì đến sự thật và nhất là sự thật tôn giáo mà chúng ta gọi ngày nay. Đó chỉ
là thủ đoạn chính trị. Lamã sẽ trả thù nếu chúng ta không làm gì đối với tên
này? Hắn chết đi không tốt hơn sao?
Chỉ có hai
cách giải thích những dự toán này. Một là Caipha nghĩ rằng những lời đồn đại về
«vương quốc» và việc dân chúng tuyên
xưng Giêsu là Vua-Cứu Tinh sẽ gây xích mích giữa Đức Giêsu và Lamã. Nếu việc đó
xảy ra thì Lamã «sẽ đến mà tước đoạt chỗ
và quốc gia của chúng ta.» Tác giả Paul Winter nói rằng «chỗ» ở đây không có nghĩa là Nơi Thánh
hoặc Đền Thờ nhưng là chức vị của thượng tế và Hội đồng. Nếu đúng vậy, thì
Caipha sợ rằng các ông sẽ bị tước đoạt chức vị vì không làm tròn bổn phận để
ngăn ngừa một cuộc nổi dậy, vì không báo cáo sự việc với Lamã hoặc giải nạp Đức
Giêsu để họ hành quyết.
Còn một lối
giải thích nữa là Philatô ra lệnh cho họ phải tìm bắt Đức Giêsu mà nạp cho ông.
Đây là trường hợp dẫn độ. Có nên giải nạp một công dân Dothái cho một quan chức
ngoại đạo vì lý do chính trị không? Câu châm ngôn «thà một người chết còn hơn là cả quốc gia bị hủy diệt» xem ra cũng
giống câu phải nạp người bị lùng bắt «kẻo
cả cộng đoàn phải khổ vì hắn».
Nói cách
khác. có hai trường hợp ở đây: một là tránh đụng độ với Lamã, hai là trường hợp
dẫn độ. Trong cả hai trường hợp thì quyết định của vị thượng tế và Hội đồng là
hợp tác với Lamã. Thủ đoạn chính trị ở đây đòi phải nạp Đức Giêsu và ngài phải
chết. Tìm cách cứu ngài là quốc gia tự sát.
Như vậy thì
chính người Lamã muốn giết đức giêsu. Có phải chính họ biết về Đức Giêsu và đòi
dẫn độ ngài, hay chính Caipha và Hội đồng báo cáo về ngài? Điều này không rõ
rệt. Chính sách của Philatô và những quan toàn quyền là tiêu diệt Đức Giêsu. Họ
phải diệt mọi ngôn sứ và những vị Cứu Tinh tiềm năng.
Với bất cứ
giá nào những người lãnh đạo Dothái cũng nhất định phải bắt Đức Giêsu mà nạp
cho Philatô. Chúng ta có thể buộc tội họ là phản bội Đức Giêsu. Giải nạp hay
phản bội là cùng một từ trong tiếng Hy lạp: paradidomai (Mc 9:31; 10:33,34;
14:41; 15:1; Mt 26:2; Gioan 19:11; CV 7:52). Có hai sự phản bội ở đây: Giuđa
phản bội Đức Giêsu (nạp ngài) cho các người lãnh đạo Dothái và chính họ phản
bội ngài (nạp ngài) cho Lamã (Mc 10:34-35). Ngài bị xử và kết tội tử hình do
toà án Lamã.
Điều dáng chú
ý nhất trong phiên toà, điều mà chúng ta biết chắc chắn nhưng lại ít được để ý
đến, là Đức Giêsu không tự bào chữa. Trong suốt phiên toà, mặc cho ai tố cáo
ngài về vụ gì, ngài vẫn thinh lặng (Mc 14:60-61; 15:4-5; Mt 26:62-63; 27:12,
14. Lc 23:9). Nếu ngài có lên tiếng, thì chỉ trả lời cách trống trơn như là
không trả lời vậy: «Chính ông nói điều đó»
(Mc 15:2; Mt 26:64; 27:11; Lc 22:70; 23:3) và «Nếu tôi có nói, các ông cũng không tin tôi và nếu tôi có hỏi, các ông
cũng không trả lời» (Lc 22:67; 20:8; Gioan 18:29-21). Cuộc đối thoại giữa Đức
Giêsu và các địch thủ của ngài được những người viết Phúc âm ghi lại. Nó nêu
lên rõ ràng một sự kiện: «Ngài không đáp
lại một lời buộc tội nào» (Mt 27-14).
Người tôi tớ
đau khổ trong Isaia 53:7 thinh lặng trước những người tố cáo - như con chiên
trước người xén lông. Không phải là những người viết Phúc âm hoặc những tài
liệu các ông dùng đã bịa đặt câu chuyện Đức Giêsu thinh lặng để minh chứng rằng
ngài là người tôi tớ đau khổ. Giữ thinh lặng trước những người tố cáo là điều
chúng ta nghĩ Đức Giêsu sẽ làm. Trước đó ngài đã luôn luôn từ chối làm dấu lạ
từ trời; ngài đã không bao giờ đòi uy quyền; ngài đã từ chối trả lời về quyền
lực của ngài; và giờ đây ngài từ chối bênh vực hay thanh minh hành động của
ngài.
Nói cách
khác, Đức Giêsu đứng đấy, thinh lặng, như đưa mọi người ra xử. Sự thật của vấn
đề là không phải là Đức Giêsu bị xử. Những kẻ phản bội và tố cáo ngài đang bị
xử. Ngài thinh lặng làm cho họ ngỡ ngàng, bối rối như bị tra hỏi và thử thách.
Những lời tố cáo của họ quay ngược lại chính họ và họ tự miệng tố cáo chính
mình.
Trước hết,
chính Philatô bị xử và bị buộc tội. Đức Giêsu thinh lặng làm ông ngạc nhiên (Mt
27:14). Có lẽ ông do dự trong giây lát như các Phúc âm ghi lại. Nhưng vì ông
không quan tâm, và cũng chẳng bao giờ quan tâm đến sự thật, nên ông chọn thủ
đoạn chính trị. Gioan nhận xét rõ ràng rằng Philatô có tội không quan tâm đến
sự thật (18:37-38).
Caipha và các
cộng sự viên còn có tội lớn hơn. Họ phải chọn giữa mạng sống của một người và
tương lai của quốc gia. Nhưng còn hơn Philatô, đáng lẽ các ông phải tìm hiểu Đức
Giêsu và tìm xem ngài đóng góp được gì.
Tuy nhiên,
dẫu Caipha chấp nhận sự thật mà tin theo Đức Giêsu, thì ông có thể làm gì, hoặc
phải làm gì, để duy trì hoà bình với Lamã? Có lẽ chúng ta nghĩ rằng ông phải
liều mạng mà từ chức để theo Đức Giêsu đi trốn và hoạt động với ngài để truyền
bá đức tin trong «vương quốc». Nhưng
đây là một đòi hỏi quá lớn lao và không biết có mấy ai trong trường hợp của ông
mà quan tâm đến sự thật và liêm chính. Nhưng cũng chính vì đó mà những người
thời đó đang lao đầu vào hủy diệt. Caipha không đương đầu nổi với điều Đức
Giêsu thách đố ông. Ai trong chúng ta muốn ném đá Caipha trước ?
Cái chết của Đức
Giêsu cũng là một lời tố cáo đối với các kinh sư, nhóm Pharisêu và một số người
đã bỏ ngài. Nếu họ đã chấp nhận ngài và tin ở «vương quốc» của người nghèo, thì «vương quốc» đã đến thay vì tai ương. Họ cũng không khác người thời
nay mấy, nhưng trong phiên xử Đức Giêsu thì họ lại có tội.
Các môn đệ
cũng phải chịu thử thách. Đó là một thử thách lớn, họ có sẵn sàng chết với ngài
để cứu độ trần gian không? Nhưng Giuđa đã phản bội ngài, Phêrô đã chối ngài, số
còn lại thì bỏ chạy.
Đức Giêsu
cũng chịu thử thách. Ngài toát mồ hôi máu và bảo các môn đệ cầu nguyện để khỏi
phải chịu thử thách như ngài (Mc 14:32-38). Ngài luôn luôn dạy các môn đệ hãy
hy vọng và cầu xin đừng có ngày này, và xin Thiên Chúa đừng để họ phải chịu thử
thách. Đó là ý nghĩa của lời kinh : «Xin
đừng để chúng con phải chịu thử thách» (M6:13; Lc 11:4). Đức Giêsu không
muốn cho ai phải chịu thử thách.
Tuy nhiên cơn
khủng hoảng đã đến và thử thách lại lớn. Chỉ mình Đức Giêsu chịu nổi giờ thử
thách này. Ngài hơn mọi người và sự thật đang lên án mọi người. Đức Giêsu chết
một mình vì chỉ có ngài mới chịu nổi cơn thử thách này. Tất cả mọi người đã
thất bại, nhưng còn được ban cho một cơ hội khác. Lịch sử của Kitô giáo là lịch
sử của những ai tin vào Đức Giêsu và được soi sáng để chấp nhận thử thách của
cái chết của mình - một cách nào đó.
Comments
Post a Comment