14 Giôsê - Chương mười bốn
CHƯƠNG
MƯỜI BỐN
Giôsê làm việc suốt
ngày thứ bảy và làm xong hầu hết mọi thứ. Chàng để chúng thứ tự trên mặt bàn. Sau
trưa, chàng nằm dưới bóng cây gần hồ nước suy nghĩ về bài thuyết trình sẽ nói ở
nguyện đường. Chàng mỉm cười nhớ lại những diễn tiến đưa đến quyết định bất ngờ
này. Chàng nghĩ đến nguyện đường này và những cái khác mà chàng quen biết. Chúng
không thay đổi mấy qua bao thế kỷ. Chúng được xây như ngày xưa. Đàn ông và đàn
bà bây giờ ngồi chung nhau. Những cuộn Sách Thánh vẫn được đặt trong hòm bia, nhưng
không được dùng đến nữa. Những người đọc Sách Thánh dùng bản in. Không có các vị
tư tế hay Pharisêu, hoặc linh mục mặc áo rộng dài đi vênh vang và mang các bình
chứa sách kinh y hệt như những con công giữa đám người bình dân. Nhưng dân
chúng không còn bình dân nữa. Nghĩ đến người đàn ông đến với chàng tối hôm qua
làm chàng nhớ lại người đàn ông bị câm ngày xưa mà chàng trừ quỷ. Ma quỷ ngày
xưa dễ thấy hơn. Thời bây giờ chúng rất tinh tế và trá hình là những nhà tư tưởng
muốn làm cách mạng xã hội, gieo rắc ngờ vực đối với việc thánh, hoặc trá hình
là nhà lãnh đạo tôn giáo để xúi giục dân chúng của mình ghét tha nhân và cả đến
giết chóc với danh nghĩa Thiên Chúa.
Rồi chàng nghĩ đến Massia,
đến công việc của nàng tại Ủy Hội Quốc Tế, về việc thiện nàng đang cố gắng thực
hiện giữa rất nhiều người có mục đích mập mờ. Nàng như chim câu trong trắng và
vô tội giữa đàn kên kên. Có thể cái trong trắng đẹp đẽ của nàng sẽ làm mềm lòng
nhiều người hơn là các thủ đoạn chính trị gian manh. Chàng nhớ đến Maria ở
Bêtani. Massia thì khác, nhưng cả hai đều yêu mến nồng nhiệt. Tình cảm của
chàng đối với hai người cũng như nhau.
Lúc về đến nhà, Giôsê
thấy một thằng nhỏ từ hiên nhà đi ra. Hai người gặp nhau ở cổng.
«Em muốn gì?», Giôsê hỏi.
«Cha Kavana muốn chú đến nhà xứ. Cha muốn nói
chuyện với chú», thằng bé trả lời.
«Ngay bây giờ?».
«Không, Cha đang bận việc bây giờ và cả ngày
mai. Cha sẽ gặp chú vào ngày thứ hai lúc chín giờ ba mươi».
«Cám ơn em».
Sáng hôm sau Giôsê đến
nhà thờ Êphicôpha dự lễ. Cha Đabi dâng lễ và nói về cái tượng Tông Đồ Phêrô đã
được đặt vào hốc tường của bàn thờ cạnh. Giôsê thấy cờ Anh Quốc treo cùng khắp
nhà thờ, biểu lộ sự trung thành của giáo phái. Chàng cố gắng cầu nguyện, nhưng
thấy khó quá. Tiếng nhạc làm chàng chia trí không còn đủ sức tự chủ. Người đánh
đại phong cầm là ông Quơn chơi một cách tuyệt vời những bài ca thánh cổ nhập cảng
từ một lục địa khác và có một lịch sử khác. Buổi lễ xem ra rất hoàn hảo về
phương diện kỹ thuật, nhưng trống rỗng về tinh thần. Cha Đabi diễn thuyết dài
dòng và chải chuốt về ý nghĩa tượng trưng gợi cảm của lễ nghi, và ca tụng Giáo
hội đã khôn ngoan sát nhập cái phong phú của nghệ thuật vào phụng vụ. Thật là xứng
đáng với sự cao cả kinh hoàng của Thiên Chúa.
Giôsê thở phào khi lễ
chấm dứt. Người tài xế gặp Giôsê bên ngoài nhà thờ và ân cần với chàng ầm ĩ lên,
chỉ chàng cho tất cả bạn bè và giới thiệu chàng là người nghệ sĩ chạm pho tượng.
Dân chúng đối xử tử tế với chàng, chúc mừng chàng tài ba, và hỏi chàng có thích
nhà thờ của họ không? Giôsê bảo họ rằng lễ nghi rất đẹp đẽ và cũng thấy một số
người chăm chỉ cầu nguyện. Chàng nghĩ rằng họ là một phúc lớn cho cộng đồng.
Chính lúc ấy Cha
Đabi đến và nghe lời bình phẩm của Giôsê. Chàng quay lại chào ông. Vị linh mục
đứng yên tại chỗ và chỉ nhẹ gật đầu, đợi cho Giôsê đến gặp ông, nhưng chàng
không đến. Linh mục quay lưng và nói chuyện với những người đang đợi ông. Người
tài xế lẫn đi khi thấy linh mục từ nhà thờ bước ra.
Giôsê đi ra đường. Một
vài người bạn cũng bỏ nhà thờ và dừng lại chào chàng. Phiên, anh quản lý hãng
cưa, bước đến đặt tay lên vai Giôsê. «Anh
là người tôi muốn gặp», anh nói, «Đến
nhà tôi ăn sáng được không?»
«Được», Giôsê đáp, và hai người cùng đến
gặp gia đình Phiên. Họ bước xuống bực cấp nhà thờ và quẹo ở góc đường về nhà.
Khi về đến nhà, Phiên
đưa Giôsê vào phòng khách trong khi vợ anh nấu bữa ăn sáng. Anh có ít điều muốn
hỏi Giôsê. Gần đây anh không gặp Giôsê và lại nghe nhiều lời đồn đại về chàng. Giôsê
có mạnh khoẻ không? Công việc làm ăn của chàng ra sao? Gần đây chàng không cần
nhiều gỗ nữa làm Phiên lo lắng chàng có gặp rắc rối gì không.
Giôsê không biết phải
trả lời thế nào. Vâng, mới đây có nhiều sự thay đổi. Chàng thường rất bận nhận
hàng của dân chúng, tuy nhiên có những phương diện khác của đời sống cần phải
lo trước, thành thử chàng không nhận hàng nữa.
Phiên biết có một số
người làm cho Giôsê khó sống, nhưng anh cố gắng khuyên giải chàng rằng đa số
dân chúng yêu mến và ủng hộ chàng.
Giôsê bảo anh rằng
chàng đọc được thời cuộc và có thể biết chắc chắn cái gì sẽ xẩy ra. Chàng bảo
Phiên đừng lo, chàng tin vào tương lai.
Mùi bánh rán, xúc
xích và thịt heo muối thơm ngát cả phòng. Ánh-Li, vợ của Phiên, mời mọi người
ngồi vào bàn. Giôsê bước vào với Phiên và ngồi cạnh anh. Câu chuyện nghiêm chỉnh
chấm dứt ở đó, và sau khi đọc kinh mọi người bắt đầu bữa ăn sáng. Cà phê nóng
thơm lựng và ngon lắm. Thức ăn biến đi cách mau lẹ khi Ánh-Li dọn ra. Giôsê ăn
ngon lành, chàng thích mọi thứ. Chàng rất mừng vì có nhiều người thích chàng và
lo lắng cho chàng. Nó cất đi được bớt ưu sầu.
Ánh-Li là một người
đàn bà tốt. Nàng từ Đức đến khi nhỏ và còn pha giọng chút ít. Lối sống của nàng
còn y hệt quốc gia cũ.
Cách thức giữ gìn
nhà cửa, giáo dục con cái cũng như may mặc cho chúng, xem rất đẹp đẽ và đơn sơ
theo lối cổ.
Giôsê hỏi chuyện từng
đứa bé trong khi ăn. Chúng không bộc lộ tâm tình như những đứa bé trong đường hẻm,
nhưng chúng thích Giôsê và vui mừng được Giôsê đến ăn sáng. Người cha đã nói với
chúng nhiều về Giôsê, vì thế chúng xem chàng như một người hùng địa phương.
Ăn sáng xong, mỗi đứa
trẻ lo công việc của mình. Giôsê ở lại vài phút nói chuyện với Phiên và Ánh-Li,
rồi ra về.
Ngày còn lại trôi
qua cách chậm rãi. Chàng không còn hăng hái và không cảm thấy thong dong như
trong các tuần qua. Tuy nhiên chàng vẫn an tâm. Chàng vẫn thích đi bộ ngang qua
nhà Lăng-Phơ. Chàng vẫn thích xem con chim trĩ nhiều màu sắc chạy nhảy trước mặt
chàng rồi cất cánh bay đi. Tuy nhiên chàng như bận tâm với thế giới nội tâm mà
một thảm kịch đang bắt đầu diễn ra. Chàng như đang đợi thứ gì. Chàng biết mình
có thể ảnh hưởng đến các biến cố, nhưng chàng không làm. Chàng để mình trở
thành một diễn viên trên sân khấu do những kẻ khác sắp đặt.
Sáng thứ hai, Giôsê
đến nhà xứ để gặp cha Kavana. Cô thư ký niềm nở chào chàng và đưa chàng vào văn
phòng. Đó là một căn phòng rộng rãi, chưng bày đẹp đẽ. Ở góc phòng có đặt một
cái bàn viết lớn bằng gỗ đào với những chiếc ghế lưng cao để dọc theo vách. Sau
bàn treo bức ảnh đức Giáo Hoàng, và hai bên ảnh là hình giám mục và cha chính xứ
Kavana. Trên vách bên cạnh có treo một bản đồ lớn của Ôbờn và các vùng lân cận.
Cha Kavana ngồi sau bàn viết.
«Này, anh bạn trẻ», vị chủ chăn khởi sự, «mới đây tôi nghe nói nhiều chuyện về anh. Anh
được nhiều người theo, mặc dù anh mới đến phố trong thời gian ngắn. Một trong
những điều làm tôi lưu ý là các cuộc thảo luận của anh về tôn giáo».
«Xin cha nói rõ hơn?», Giôsê hỏi.
«Vâng. Tôi nghe nói anh muốn dạy đạo, và theo
như tôi nghe, thì đấy không phải thứ đạo tốt. Nhiều người bổn đạo của tôi rất
lo lắng về điều đó và hỏi tôi có đồng ý không. Dĩ nhiên tôi bảo họ rằng tôi
không đồng ý, và tôi cũng không biết anh là ai. Hình như anh cũng nói với dân
chúng rằng đạo ngày nay không phải là đạo Giêsu dạy, và các lãnh tụ tôn giáo
không khác gì những vị lãnh đạo tôn giáo thời Giêsu. Có đúng vậy không?»
Giôsê nhìn vị linh mục
cách khả ái và trả lời cách đơn sơ, «Không
phải vậy. Tôi không cố ý dạy đạo, nhưng khi người ta thảo luận về các đề tài đó,
tôi phát biểu tự do điều mà tôi biết. Vâng, đúng vậy, Giêsu không bao giờ muốn
tôn giáo trở thành như ngày nay. Giêsu là con người tự do và Ngài dạy dân chúng
rằng họ là con cái của Thiên Chúa, và vì là con cái của Thiên Chúa, họ được tự
do. Họ không phải là nô lệ. Giêsu cũng muốn rằng các vị lãnh đạo của Ngài phải
khiêm tốn và phải để dân chúng hưởng tự do. Tiếc thay không có mấy vị lãnh đạo
tôn giáo cảm thấy an tâm khi dân chúng được tự do, họ lại còn thích áp dụng quyền
hành đối với dân chúng. Họ thích đặt luật pháp đè nặng trên đời sống người dân
và tuyên bố rằng, nếu dân chúng không tuân giữ luật pháp, thì sẽ phạm tội và sẽ
bị Chúa phạt. Điều đó không giống Giêsu tí nào».
Vị chủ chăn cảm thấy
khó chịu và tức giận về điều Giôsê nói.
«Làm sao anh biết Giêsu muốn gì?», linh mục
chận lại nói.
«Các sách Phúc Âm không cho thấy rõ ràng thái
độ của Giêsu về những việc đó sao?», Giôsê ôn tồn hỏi.
«Giêsu dạy là một chuyện, còn một người giáo
dân không học thần học mà dám công kích lối hành đạo của Giáo hội, là một chuyện
khác», linh mục phản đối.
«Tôi biết điều tôi nói là thật, và Thánh Kinh
làm chứng điều đó. Tôi biết Giêsu dạy các môn đệ của ngài phải khiêm tốn, và bảo
họ phải thực thi quyền hành cách nhỏ nhẹ và ôn hoà. Ngài lại rửa chân họ để ghi
vào tâm khảm họ rằng phục vụ dân là quan trọng, chứ không phải cai trị dân».
«Anh bạn trẻ ơi, tôi không thích thái độ của
anh, và tôi phẫn uất cái lối anh muốn giảng đạo cho tôi. Tôi cũng phẫn uất cái
lối anh nói với dân chúng của tôi, tôi không cho phép anh làm như vậy».
«Ai là dân chúng của cha?», Giôsê hỏi
cách châm biếm.
«Anh cứ xem bản đồ trên vách?» linh mục
nói, tay chỉ bản đồ. «Tất cả những ai sống
trên vùng vạch ra trên bản đồ là dân của tôi, và tôi có thẩm quyền trên họ. Không
ai có quyền dạy họ mà không có phép của tôi».
Giôsê giận ra mặt. «Họ không phải là dân của cha», chàng nói
cách cứng rắn. «Họ là con cái của Thiên
Chúa, và vì là con cái của Thiên Chúa, nên họ được tự do. Chỉ những chủ chăn
như cha mới tước quyền tự do của con cái Thiên Chúa và khiến họ trở thành nô lệ,
không còn được tự do sống theo lương tâm, hoặc nghe theo tiếng nói nội tâm, hoặc
cả đến tiếng nói của Thiên Chúa. Chỉ những người như cha mới ham mê quyền hành
mà tức giận dân chúng, khi họ nói với nhau về Thiên Chúa mà không có phép của
cha. Chỉ những người như cha đã phá hủy tiếng tốt của sứ điệp Giêsu và đã đưa đời
sống dân chúng vào cồng và sợ hình phạt, không phải vì các vị quan tâm đến dân
chúng, nhưng chỉ để bảo vệ quyền hành của mình. Giêsu dạy các tông đồ của ngài
phải yêu mến và phục vụ, nhưng quí vị đã không bao giờ yêu mến dân chúng, bởi
vì quí vị không thể yêu mến như mọi người yêu mến. Quí vị trị dân và ép buộc họ
phục vụ quí vị thì đúng hơn».
Linh mục giận tái mặt.
Ông đứng lên và bước về phía Giôsê. Chàng cũng đứng lên. Linh mục thấy Giôsê biết
ông cả trong lẫn ngoài, mặc dù chàng chưa bao giờ gặp ông. Ông cũng phát sợ
chàng, và lúc này chỉ còn việc tống cổ chàng đi.
«Anh bạn trẻ ơi», linh mục cứng rắn nói, «cuộc thảo luận hôm nay đến đây là chấm dứt. Tôi
không biết anh định làm gì, nhưng tôi không thấy có gì tốt đẹp cả. Tôi không muốn
anh đi lễ nhà thờ của tôi nữa. Tôi không thấy có gì lợi cho anh hoặc cho dân
chúng của tôi khi anh có mặt. Tôi nhất định sẽ bảo dân của tôi tránh xa anh».
Nói xong, linh mục chỉ lối cho Giôsê ra cửa, và ông đi lên lầu vào phòng đóng dập
cửa lại.
Giôsê đi ra đường. Vài
đứa trẻ con đang chơi ở khoảng đất trống dọc theo đường. Vừa thấy chàng, chúng
chạy đến và cùng đi với chàng. Chúng nói cho chàng nghe đủ thứ chuyện mà chúng
nghĩ là quan trọng. Giôsê quên cả nỗi bực bội của mình. Chàng quàng tay lên vai
chúng, bảo chúng hãy yêu mến tuổi thơ và đừng lớn lên trước thời gian. «Các em là con cái của Thiên Chúa», chàng
bảo chúng, «và các em được tự do. Đừng để
ai lấy mất sự tự do của các em».
«Chúng em không để mất đâu, chú Giôsê ạ»,
chúng trả lời, mà không hiểu chàng muốn nói gì, mặc dù những lời lẽ đó sẽ ăn
bám vào trí nhớ của chúng trong nhiều năm.
Trong khi Giôsê đi với
lũ trẻ, cha Kavana đã đi lên phòng của mình, ông đi đi lại lại, suy nghĩ phải
làm gì đối với tên cuồng tín vô liêm sĩ này. Ông nhất định không để Giôsê yên
sau khi chàng đã xúc phạm đến danh giá của ông. Bởi vì không thể đương đầu với
Giôsê, ông sẽ tìm cách khác. Ông nhắc điện thoại lên gọi văn phòng giám mục.
«Cái gì đó, cha Gioan?», vị giám mục hỏi.
Linh mục giận dữ, điều
đó được thổ lộ qua những lời ông tố cáo Giôsê. «Có một người trong họ đạo của con, hắn mới đến mà đã gây ảnh hưởng lớn
với nhiều người ở đây. Hắn nói về đạo và xúi dân chống lại Giáo hội. Nếu không
chận hắn lại, hắn sẽ phá hoại địa vị của con và sẽ làm hại vô song đối với đức
tin của dân chúng. Con đã cố gắng lịch thiệp nói chuyện với hắn, nhưng hắn làm
nhục con và bảo con không xứng đáng làm linh mục».
Vị giám mục chăm chú
nghe, rồi, khi vị giáo sĩ nói xong, ông trả lời, «Có phải cha nói về Giôsê không?».
«Đúng, đúng hắn».
«Tôi làm gì bây giờ?», giám mục hỏi.
«Đức cha nên gọi hắn đến mà nói chuyện với hắn».
«Cha có nghĩ là hắn sẽ nghe tôi không?»
« Ít nhất hắn cũng thấy rằng hắn không chạy
thoát được với cái vô liêm sĩ của hắn».
«Và nếu hắn không nghe, thì chúng ta làm gì? Ảnh
hưởng của hắn không chỉ giới hạn ở Ôbờn. Tôi đã nhận nhiều thư từ của dân chúng
trong vùng sau khi hắn xuất hiện trên đài truyền hình. Hắn nổi tiếng rất nhanh».
«Vì thế càng phải chận hắn lại ngay bây giờ, nếu
không sẽ muộn. Hãy tin con, hắn nguy hiểm lắm. Nếu dân chúng nghe theo những tư
tưởng của hắn, không biết rồi các nhà thờ của chúng ta sẽ ra sao. Và nếu những
tư tưởng của hắn được truyền bá, thì các nhà thờ sẽ trống trơn».
«Cha có phóng đại không?», vị giám mục hỏi.
«Cha có nghĩ là hắn quan trọng thế đó
không?».
«Gặp hắn rồi sẽ biết, thưa Đức Cha. Nếu nói
chuyện với hắn Đức cha sẽ đổi ý».
«Nhưng hắn chỉ là một người giáo dân. Chúng
ta không thể trừng phạt hắn như trừng phạt một linh mục. Nhưng, để cha được an
tâm, tôi sẽ gặp hắn».
Sau khi ở nhà xứ về,
Giôsê dành cả ngày để suy tính. Chàng đi dạo ra đồng cỏ. Mặt trời lẩn sau các
đám mây đục. Chim chóc im tiếng. Rừng cây cũng im lìm. Giôsê quỳ gối xuống và
ngồi trên hai gót chân, tay chàng nắm chặt đặt trên đùi. Chàng nhìn chân trời
xa, không phải nhìn những gì mắt thấy, nhưng là mơ tưởng những gì xa hơn màu sắc
và hình thù của vật chất. Chàng quỳ gối không lay động, người thẳng đứng, gần một
giờ đồng hồ, như thể hồn đã tạm lìa xác và người chàng chỉ còn là cái vỏ. Nước
mắt chảy dài xuống hai má chàng rồi tắt. Mặt trời vui đùa với các đám mây khi một
luồng ánh sáng chiếu qua khe trống rọi lên mặt Giôsê, khiến những đường nét đặc
biệt trở nên vô cùng đẹp đẽ. Chàng quỳ gối im lặng, chìm đắm trong suy tư. Rồi
mặt chàng dịu lại, những thớ thịt giãn ra trong niềm an tĩnh, khi một nụ cười
hé nở đón nhận những sứ điệp mà chỉ có chàng mới nghe thấy được.
Comments
Post a Comment