13 Giôsê - Chương mười ba


CHƯƠNG MƯỜI BA

Giôsê làm việc tận lực suốt tuần kế đó, chàng cố gắng làm cho xong những tượng Tông đồ Phêrô như đã dự định. Vào trưa thứ hai, có hai chàng trai trong xóm đến gặp Giôsê với một chuyện không may mắn. Chúng và các bạn sống trong một nông trại. Đồ nghề của chúng rất thô sơ và không tốt lắm. Sáng hôm ấy, khi chúng làm việc, một bánh xe bị gãy. Chúng thử sửa lại nhưng không làm được. Chúng nhờ Giôsê giúp, chúng có đem bánh xe theo. Giôsê nhìn bánh xe và mỉm cười. Chàng nhớ lại ngày xưa khi chàng là anh thợ con làm việc với cha chàng.
«Có, tôi sẽ giúp các em», Giôsê bảo chúng. «Ngày mai trở lại, sẽ xong».
Bọn chúng ra về và dọc đường bàn tán về Giôsê. Chàng còn thong dong hơn chúng, tuy nhiên đời sống của chàng rất là nề nếp, không giống như đời sống của chúng. Chúng cảm thấy Giôsê có sự an bình và an phận mà chúng không có, cũng như một niềm vui mà chúng chẳng bao giờ biết tới. Đời sống đơn giản của chúng là kết quả của sự bất mãn với đời, nó không đem lại bình an như chúng nghĩ. Giôsê chọn lối sống giản dị, bởi vì nó cho chàng được tự do để phát triển đời sống nội tâm. Xem bên ngoài thì đời sống của chàng và của chúng rất giống nhau, nhưng bên trong lại rất khác nhau. Chúng ganh tị với chàng.
Giôsê sửa bánh xe khi chàng nghỉ việc. Công việc không tỉ mỉ lắm và cũng dễ dàng hơn. Đã lâu chàng không làm bánh xe. Một chuỗi ký ức tràn ngập tâm trí chàng. Thỉnh thoảng nước mắt tràn ra mi khi chàng nghĩ đến những kỷ niệm êm đềm thời xa xưa. Đó là những ngày đẹp đẽ, khi chàng là một đứa trẻ học vào đời. Mẹ chàng không bao giờ xa chàng, thỉnh thoảng bà cúi xuống trên chàng như một gà mẹ, bao bọc chàng như thể hoạn nạn sắp xẩy đến bất cứ lúc nào. Mẹ chàng là một người đàn bà hạnh phúc, luôn ngâm nga ca hát khi làm việc nội trợ. Từ phòng làm việc của cha, chàng có thể nghe bà hát. Chàng nhớ lại có ngày cha chàng nói, khi hai người làm cái ách buộc cổ bò, «Tại sao mẹ con không hát khi chúng ta ở trong nhà?». Cả hai cùng cười. Chàng nhớ mẹ chàng luôn luôn cố gắng không để chàng có bạn xấu. Bà đã không thành công! Rồi từ đó bao nhiêu việc đã xẩy ra!
Giôsê phải gọi Vu-Di giúp chàng làm bánh xe. Chàng cần hàn vành sắt của bánh xe. Vu-Di đến và hỏi chàng làm bánh xe cho ai. Khi Giôsê nói cho anh biết, anh dài dòng kể lể về những cậu trai dị kỳ đó không biết là đàn ông hay đàn bà. Giôsê chỉ lắng nghe khi Vu-Di hàn cái vành bánh xe.
Khi Vu-Di ra về, Giôsê lại tiếp tục làm hai pho tượng. Chàng đã làm được rất nhiều trong tuần qua, và trong vài ngày nữa chàng sẽ làm xong.
Ngày hôm sau mấy cậu trai và hai bạn đến lấy bánh xe. Chúng nói chuyện với Giôsê hơn một giờ đồng hồ, cố gắng tìm hiểu đời sống của chàng. «Hình như trong đời sống chú đã thành công được với những gì mà chúng em tranh đấu liên lỉ, đó là sự an bình và an phận, chúng luôn luôn trốn tránh chúng em. Chú có bí mật gì, Giôsê?», một cậu trai cao lớn mặt đầy râu hỏi chàng. «Bình an của tôi phát xuất tự bên trong», Giôsê bảo chúng. «
Cái đơn sơ của đời sống tôi phản ảnh điều tôi có bên trong. Cái đơn sơ của đời sống các em không phát xuất tự bên trong. Nó chỉ là sự trốn đời, là một hành động thoái thác chính mình, điều đó chỉ làm cho các em đau khổ. Tôi không có những vấn đề đó trong đời sống của tôi. Tôi không để các biến cố làm tôi đau khổ. Tôi nghĩ rằng nhân loại đang đà lớn lên và nhất thiết phải bất toàn. Nó không thể khác hơn được. Tôi hiểu điều đó và chấp nhận nó, và con người thế nào thì tôi yêu mến họ thế đó. Tôi thích họ vì Cha chúng ta tạo dựng họ như vậy. Hãy tìm kiếm ThiênChúa và yêu mến nhân loại, các em sẽ tìm thấy bình an và hoà hợp với thiên nhiên».
Mấy cậu trai rất thán phục, cả khi Giôsê công kích cái nhìn của chúng. Chúng thích cái nhìn sáng suốt của chàng. Chúng cám ơn chàng đã dành thời giờ cho chúng và đã sửa bánh xe. Bốn đứa đều có quà cho Giôsê. Một đứa mang con gà trống trên tay, một đứa mang con gà mái. Một đứa khác mang bình mứt mà bạn gái nó làm. Đứa thứ tư có một rổ trứng và một bao bột mì tự tay nó xay. Chúng rất biết ơn Giôsê về những gì chàng đã làm cho chúng. Giôsê nói với chúng rằng Vu-Di hàn viền xe. Khi nghe tên Vu-Di, chúng cười. Chúng đã gặp Vu-Di nhiều lần. Chúng cười vì Giôsê đã thuyết phục được Vu-Di làm việc cho chúng. Chúng lấy bánh xe và ra về. Chúng lăn bánh xe xuống đường, trong khi Giôsê nhìn theo và mỉm cười.
Chàng đi vào nhà và tận lực làm các pho tượng. Chàng biết nhiều điều về Phêrô mà không ai biết được, và chàng tạc những cá tính ấy trên miếng gỗ. Mỗi pho tượng là mỗi khác, các nét hạnh kiểm đối nghịch nhau như thể là của hai nhân vật khác nhau. Giôsê đã dự tính như vậy. Hai vị giáo sĩ có hiểu được điều đó hay không lại là việc khác, và nếu họ hiểu, liệu họ có chấp nhận điều họ thấy không? Giôsê tiếp tục làm, chàng gọt đẽo các chi tiết hết sức tỉ mỉ.
Vào trưa thứ năm thì chàng làm xong hai cái tượng. Chàng đánh nhám chúng cho thật láng, rồi tô màu đậm để các thớ gỗ nổi lên. Rồi chàng đánh sáp chúng và để qua một bên. Đó là những kiệt tác cuối cùng mà Giôsê làm. Đời sống của chàng trở nên phức tạp hơn. Mặc dù đời sống cá nhân của chàng rất đơn giản, nhưng dân chúng không để chàng sống như vậy; họ phản ứng gắt gao đối với chàng. Có một số người không thích thấy chàng có mặt trong cộng đồng, họ nhất quyết làm mọi cách để tẩy chay chàng.
Giôsê ngủ say đêm đó nhưng mơ những chuyện lạ lùng: Nataniên vặn hỏi nguồn gốc của chàng, Giacôbê và Gioan tranh dành địa vị, Phêrô sợ hãi không muốn dính líu với Giêsu, và Giuđa hợp tác với các viên chức của đền thờ. Tất cả những yếu đuối nhân loại của các tông đồ cũng lại thấy nơi những kẻ chăn dắt dân ngài. Họ đã gây rắc rối cho Ngài, và điều đó sẽ tái diễn mãi. Bao lâu con người còn là con người, họ sẽ thấy khó mà chấp nhận Ngài. Ngài làm cho đời họ quá phức tạp.
Giôsê thức dậy sớm. Chim chóc ca hát bên ngoài cửa sổ. Chàng ngồi trên mép giường, hai tay ôm đầu. Chàng mệt mỏi. Chàng đã ngủ say lắm, nhưng những giấc chiêm bao nặng nề làm chàng kiệt lực. Cuối cùng chàng đứng lên, thay quần áo và nấu ăn sáng. Chàng không đi bộ buổi sáng ấy. Chàng đi lang thang trong vườn, hái mấy cọng rau vừa lớn để ăn. Không còn nhiều thì giờ nữa. Chàng đã sắp đặt vườn tược đâu vào đấy và bây giờ chỉ còn thu lượm những gì sót lại của vụ mùa đầu tiên.
Chàng đang làm việc thì nghe có tiếng xe hơi dừng lại trước nhà và tiếng người chào nhau. Chàng đi ra và thấy hai giáo sĩ cùng tiến tới trên lề đường.
Cha Đabi trông thấy chàng trước tiên. Ông không cầm miệng được khi thấy chàng trong bộ đồ làm vườn, «Anh nghệ sĩ danh tiếng của chúng ta lại làm việc bụi bặm. Tôi nghĩ anh nên làm vườn thì tốt hơn là làm nghề điêu khắc. Hình như anh thích nó hơn». Giáo sĩ Rôlơn cảm thấy khó chịu về tư chất của vị linh mục.
«Mọi sự sống đều khởi sự từ đất», Giôsê nói trả đũa, «cả những người nhất trong chúng ta cũng không thể tự hào là mình cao hơn đất. Chúng ta đều bởi đất mà ra». Vị giáo sĩ da đen nghĩ đó là một câu sửa lưng đúng và rất xứng đáng. Vị linh mục thì không chấp nhận dễ dàng lắm và mặt ông có vẻ khinh khỉnh.
Giôsê ra hiên mở cửa cho hai ông. Rồi chàng xin kiếu đi vào phòng khách đem một cái tượng ra. Chàng lại đi vào lấy một cái nữa. Khi chàng đem nó ra, hai ông lấy làm lạ vì hai tượng rất giống nhau mà không hiểu cái khác biệt lớn của các bối cảnh. Cũng không ai biết người kia đặt làm tượng như thế nào.
Vị linh mục nhìn cái tượng mà ông nghĩ là của ông và công nhận rằng Giôsê làm không đến nỗi tệ lắm - đối với khả năng của một anh làm vườn! Giôsê mỉm cười khi thấy ông cố gắng hài hước.
«Thưa quí ngài», Giôsê nói, «Tôi không nghĩ là các vị sẽ đến cùng một lúc. Tình cờ hai vị đặt làm cùng một pho tượng Phêrô. Tôi cố gắng làm như quí vị muốn và chạm những nét của Phêrô cho hạp với dân chúng của quí vị». Chàng lấy pho tượng Phêrô quì gối tay xoa đầu một người ăn mày sắp chết, cái vương miện của ông nằm sơ sài dưới đất. Chàng nâng pho tượng lên và đặt gần vị linh mục Êphicôpha. Linh mục kinh hãi và cảm thấy bị chạm. «Đây không phải là vị Tông Đồ Phêrô vĩ đại, nhưng là một vị thánh tôi tớ mà tôi không nhận ra», linh mục nói cách giận dỗi.
«Trái lại», Giôsê nói, «đó là lúc Phêrô vĩ đại nhất. Tư chất của Phêrô không phải để phục vụ. Ông sinh ra để cai trị, và điều đó ảnh hưởng cả tư cách của ông. Tuy nhiên khi ông trở nên giống Thày mình và hiểu được phận sự thật của ông là làm tôi tớ Thiên Chúa, thì ông lại có thái độ khiêm tốn đối với những ai ông cho là thấp kém hơn. Pho tượng này diễn tả một thời lúc trong đời sống Phêrô khi ông vượt thắng bản tính của mình. Ông hiểu được Giêsu muốn gì, khi ngài rửa chân các vị Tông đồ và bảo họ hãy trở nên tôi tớ của con cái Thiên Chúa.»
Vị linh mục thán phục lập luận của Giôsê, nhưng không ưa lối giải thích của chàng. Ông vẫn còn giận với những gì ông trông thấy, như thể ông bị Giôsê đập cho cái búa tạ. Giáo sĩ kia cũng kinh hãi khi thấy pho tượng kia mà ông nghĩ đó là của ông. Ông hiểu ý nghĩa pho tượng mà Giôsê đưa cho cha Đabi, nhưng ông không hiểu cái này. Phêrô đứng mặc áo lễ với dây choàng cổ, tay trái nắm chặt gậy chăn chiên và tay phải giang ra cách uy nghi với một đám đông, trong đó dĩ nhiên có các vị Tông đồ khác. Nó diễn tả hết mọi sự về Giáo hội mà những người đạo Phêntơcốt không ưa thích, nhất là cái uy quyền cao cả. Giáo sĩ Rôlơn không thoải mái với cái bối cảnh. Khi Giôsê đặt tượng gần ông, ông cảm thấy ngượng ngạo.
«Giôsê», giáo sĩ Rôlơn nói hết sức lịch sự, «Tôi nghĩ có lẽ anh lầm khi làm hai pho tượng này. Có lẽ cha Đabi thích pho tuợng này hơn, còn tôi thì thích pho tượng anh làm cho cha hơn».
«Nếu người này thích pho tượng của người kia và đổi cho nhau thì tôi cũng không phản đối», Giôsê đáp.
Hai người đổi tượng cho nhau. Giáo sĩ lấy sổ ngân phiếu ra và viết một ngân phiếu đúng như giá tiền mà Giôsê đã đồng ý làm, đó là 100 đôla. Cha Đabi ngạc nhiên.
«Tại sao pho tượng anh làm cho tôi đắt hơn cái kia nhiều?» linh mục hỏi. Ông đã đồng ý trả cho Giôsê 135 đôla. Giôsê không đòi giáo sĩ Phêntơcốt nhiều tiền, vì chàng biết cộng đoàn của ông nghèo, và họ rất khó mà kiếm nhiều tiền.
Giôsê mất cả nhẫn nại, chàng nhìn cha Đabi. «Chúng ta đã không đồng ý giá phải chăng là 135 đôla sao?», Giôsê hỏi ông. «Hai vị có quyền đổi giá cả cho nhau, nhưng đó là việc giữa hai vị».
Vị linh mục tức giận ra mặt, nhưng ông không muốn tỏ ra mình nhỏ nhen trước mặt giáo sĩ kia mà ông cho là thấp kém hơn ông cả về nghề nghiệp và địa vị. Ông chỉ nói với Giôsê là chàng sẽ nhận tiền thù lao qua bưu điện, vì mọi giấy tờ tiền bạc của nhà thờ ông phải trả theo thủ tục.
Xong đâu đấy, hai vị mang tượng về. Giôsê tiễn họ ra cổng. Người tài xế đang đứng đợi chủ, anh đỡ lấy pho tượng của ông. Cha Đabi cáo lỗi với giáo sĩ vì không thể cho ông đi nhờ xe vì không còn chỗ. Giôsê nhìn hai ông và mỉm cười cách ranh mãnh như thể chàng biết điều gì mà không ai biết được. Chàng đã chạm các pho tượng đó với một mục đích, và mục đích đó sẽ đạt được mặc cho hai vị giáo sĩ nghĩ thế nào về chúng. Chàng đi vào nhà và thở ra cách nhẹ nhõm.
Cái phòng thợ xem ra trống rỗng khi không còn hai pho tượng. Giôsê tiếp tục làm các vật nhỏ còn lại. Khi làm xong, chàng để chúng qua một bên. Chỉ còn vài cái nữa. Vào khoảng ba giờ rưỡi thì chàng nghỉ làm.
Đó là ngày thứ sáu, Aron sắp đến đón chàng. Chàng nghỉ việc sớm lo cơm nước, để khi Aron đến thì chàng đã ăn xong. Trong lúc sửa soạn, chàng bị gián đoạn nhiều lần khi người ta đến lấy hàng. Họ cám ơn chàng đã lấy giá phải chăng. Một người đàn ông đến sau khi những người khác ra về. Ông tên là Đích. Ông đã đặt làm một vật nhỏ để mừng sinh nhật vợ ông. Ông thích ngay Giôsê từ ngày gặp chàng ở xưởng cưa khi chàng đến mua gỗ. Hai người thỉnh thoảng gặp nhau và bàn về nhiều chuyện. Đích dạy môn sử ở đại học và làm nghề luật. Ông say mê sự hiểu biết của Giôsê về các biến cố lịch sử, cũng như khả năng của chàng khi đưa ra những quan điểm rất khác với những gì mà các sử gia chấp nhận. Đích kính trọng lối phán đoán của Giôsê, vì thế ông đưa những giải thích về lịch sử của chàng vào môn học. Những gì Giôsê nói thì rất chí lý, chàng lập luận rõ ràng về những trào lưu xã hội và chính trị qua dòng lịch sử. Chàng giải thích được những dữ kiện mà cho đến nay xem ra không liên hệ gì với nhau.
Đích thuộc về nhà thờ Prêbytêri trong làng. Ông rất hoạt động trong cộng đoàn và, vì là bạn thân của vị chủ chăn, nên ông biết được những tin tức «chính thức» trong phố. Giôsê là đề tài của tin tức chính thức mới đây, và điều đó làm Đích lo âu.
Ông bị giằng co giữa sự trung thành với nhóm đầu não trong giáo xứ và tình bè bạn với Giôsê. Ông thấy chàng rất cô đơn trong cộng đồng và dễ bị tấn công, nhưng ông không biết phải làm thế nào. Cuối cùng ông quyết định nói cho chàng biết mà không phản bội vị chủ chăn của ông, và một trật có thể giúp cho Giôsê.
«Giôsê», ông nói, «Tôi biết anh, và tôi hiểu cảm nghĩ của anh về mọi sự. Tôi biết anh chia xẻ nỗi lo âu của tôi về việc các vị lãnh đạo tôn giáo lạm dụng quyền hành. Tuy nhiên anh ở vào một hoàn cảnh khó khăn hơn tôi. Tôi có thể nói về tôn giáo trong khuôn khổ lịch sử và che đậy lời công kích của tôi. Nhưng khi anh phát biểu điều anh suy nghĩ, thì người ta nói đó là ý kiến riêng tư của anh, và họ phê phán anh theo lời anh phát biểu. Phần đông dân chúng không hiểu được anh, họ lấy làm chướng tai khi nghe đồn thổi về những gì mà họ nghĩ là anh đã nói. Rất tiếc là khi nghe vậy, không vị chủ chăn nào thích cả.»
Giôsê chăm chú nghe. Đích nói đúng. Đó là một nỗi khó khăn. Giôsê phát biểu một cách trung thực điều chàng nghĩ, nhưng ít người có được kinh nghiệm cần thiết để hiểu chàng. Tuy nhiên điều quan trọng là chàng nói lên ý nghĩ của chàng. Ít nhất dân chúng nghe và suy nghĩ về điều chàng nói. Một lúc nào đó nó sẽ có hiệu quả, nhưng rủi thay điều đó sẽ xảy ra sau khi chàng đã đi rồi.
«Đích, tôi biết ông đúng», Giôsê nói, «cám ơn ông đã nói với tôi điều đó. Tôi suy nghĩ nhiều về điều tôi phải làm và phải nói, và chúng luôn luôn đi đến cùng một kết luận - những người nghe sẽ không nghe hoặc không hiểu một cách như nhau những gì tôi nói. Nhưng ý kiến của ai cũng bị như vậy. Ý kiến của tôi cũng không khác hơn. Chỉ khác ở chỗ những gì tôi phải nói sẽ có ảnh hưởng đến đời sống của dân chúng và con cái họ, và cũng sẽ ảnh hưởng đến sự liên hệ của họ với Thiên Chúa. Họ cần phải hiểu rõ điều đó, vì thế tôi không thể làm khác hơn. Đợi lúc gió lặn, rơm tàn, thì hạt lúa sẽ chồi lên.»
Tuy nhiên nhà tiên tri sẽ luôn luôn là nạn nhân đầu tiên của sứ điệp của mình, và chỉ sau đó người ta mới nói, «Bây giờ tôi mới hiểu. Nhưng ông đã đi rồi!». Đích lắng nghe và thán phục ý nghĩ của Giôsê cũng như sự bình tĩnh can đảm của chàng trước sóng gió sắp đến. Điều đó cho thấy đây không phải là lần đầu tiên Giôsê gặp hoàn cảnh như thế. Ông nhìn nghệ phẩm mà Giôsê đã làm cho ông. Đó là hình một người đàn ông đứng gần dậu thổi sáo, trong khi trẻ con nhìn đi nơi khác có vẽ không thích, còn chim chóc đậu trên bờ giậu thì lại chăm chỉ nghe, và một người đàn bà đứng gần giậu nhìn anh một cách thán phục. Đích nhận ra đấy là gia đình của ông. Ông không nhịn cười được trước cái ý nghĩ của Giôsê về những vấn đề nhà ông. «Giôsê», ông nói, «thật là thông minh và hoàn hảo trong từng chi tiết! Làm sao anh có đủ nhẫn nại để làm các chi tiết tỉ mỉ thế đó? Dẫu có khả năng làm, tôi cũng không thể cầm trí được».
Đích nài nĩ trả tiền cho Giôsê, nhưng chàng không lấy. Đích nói đó là món quà cho sinh nhật vợ ông, và ông thấy không phải lẽ nếu ông không đóng góp một ít trong việc trả tiền. Tình yêu mà Giôsê diễn tả nơi bức tranh quả là một kho tàng quí giá cho cả ông và vợ ông. Chàng hy vọng lũ trẻ cũng đọc được bài học đó. Đích biết ơn lắm, ông ôm lấy Giôsê, nước mắt chảy xuống má khi ông nghĩ rằng Giôsê hiểu và yêu gia đình ông khi chàng chạm bức tranh.
Ông đỡ lấy bức tranh và lắc đầu không tin khi ông bước ra cửa với Giôsê. Họ cùng đi ra với nhau. Ông cười thầm khi bước lên xe, ông nghĩ không biết vợ ông sẽ phản ứng thế nào khi bà thấy món quà.
Aron đến đúng giờ. Xe của ông được rửa láng bóng trở lại. Ông rửa nó trước khi ông đến vì biết chàng sẽ để ý. Giôsê đợi ở hiên nhà và bước ra xe khi Aron dừng lại. Chàng ngại ngùng mỗi khi Aron bước xuống mở cửa xe cho chàng. Chàng tự mở cửa xe để tránh mọi phiền hà. «Tôi thích ông rửa xe sạch sẽ», Giôsê nói trong khi bước lên xe. «Tôi không thể tưởng tượng được nó sẽ như thế nào nếu hai tuần mà không rửa».
Aron cười. «Giôsê, anh lanh trí quá. Anh có biết tại sao tôi rửa xe không? Làm sao tôi có thể đưa một người mẫu như anh đến nguyện đường trên một chiếc xe nhớp nhúa».
Giôsê vỗ lên đùi Aron. «Tôi xứng đáng lắm mà», chàng nói cách hài hước.
Trên đường Aron thổ lộ một ít tin tức hấp dẫn với Giôsê. Một nhóm người có thế giá thuộc nguyện đường đã đến gặp vị tư tế trong tuần với một lời đề nghị. Lêgâu, Massia và một vài người nữa đứng đàng sau đề nghị ấy. Khi Giôsê hỏi việc gì đó, mặt Aron sáng rỡ lên, nhưng ông nói không thể tiết lộ cho chàng, phải để cho vị tư tế tuyên bố. Ông hy vọng Giôsê sẽ đồng ý với lời đề nghị. Giôsê không tìm hỏi thêm nữa.
Khi đến nguyện đường, họ được chào đón niềm nở như mọi lần. Aron bỏ Giôsê ở đó, và một người đàn ông lạ mặt đến tự giới thiệu với chàng. Ông nghe nói Giôsê đến nguyện đường mỗi tuần và được tiếp đãi nồng hậu. Ông không thích điều đó tí nào cả. Đó là lý do ông đến hôm nay. Ông và gia đình ông đã bị những người Kitô giáo bách hại trong nhiều năm, ông không chịu được khi nghe một người Kitô giáo được dân của ông tiếp đãi một cách nồng hậu. Ông tố cáo Giôsê nhiều điều, nói rằng chàng phải chịu tội của những người đã bách hại dân tộc ông và giết họ trong các trại tập trung.
Giôsê thương hại tâm hồn đau khổ của ông và nghĩ rằng đối chọi với ông là độc ác quá. Rồi, trước sự ngỡ ngàng của ông, chàng tự động giang tay ôm chầm lấy ông và ôm ghì ông một cách âu yếm. Chàng xin lỗi ông về những khốn khổ mà người đồng đạo của chàng đã làm đối với gia đình ông và người Do thái qua bao thế kỷ. Người đàn ông xúc động vì tình yêu thương chân thành của Giôsê, nên nức nở khóc. Ông ôm lấy Giôsê và khóc như một trẻ sơ sanh. Chỉ trong chốc lát, bao cay đắng và hận thù đều tan mất trong tâm hồn ông, và toàn thân ông mềm nhũn như được giải toả hết mọi căm hờn và bệnh hoạn chồng chất bao năm.
Những người biết ông và đã xa tránh ông vì mối thù hằn của ông, phải sững sờ trước sự thay đổi đột ngột nơi ông. Mọi người nhìn theo khi ông và Giôsê cầm tay nhau bước vào nơi thánh. Biến cố ấy không dễ gì quên được ngay.
Người đàn ông ngồi chung với Giôsê suốt buổi lễ và ngạc nhiên khi nghe Giôsê đọc kinh và hát thánh vịnh bằng tiếng Hêbrơ rất thông thạo. Sau lễ hai người cùng đi ra với nhau. Khi những người ái mộ Giôsê quây quanh chàng để nghe chàng thuyết trình như thường lệ, ông ấy cũng nhập bọn. Ông nhận thấy Giôsê là người rất tốt, vì chàng thông hiểu bản tính nhân loại. Chàng nói rằng con người chỉ tìm được bình an khi họ gạt bỏ những nhỏ nhen và thành kiến, cả đến những thành kiến đâm rễ trong bao thế kỷ. Chỉ một tâm trí cởi mở mới có thể khai triển được những thái độ cần thiết cho hoà bình. Mọi sự trên thế gian này không thể mang lại hoà bình; chúng ta chỉ có hoà bình khi biết vượt lên vật chất mà không còn ham muốn nó nữa. Cả đến dân Chúa cũng phải ý thức rằng mọi dân tộc đều được ngài chọn để hoàn thành một vai trò riêng biệt trong định mệnh của nhân loại. Và chỉ khi chấp nhận những dân tộc khác như những người cùng chia xẻ bình đẳng trong chương trình của Chúa, họ mới có thể được gia đình nhân loại chấp nhận.
Đây là những ý tưởng rất can đảm mà Giôsê đã nói lên. Tuy nhiên, dẫu chúng có hay ho đến đâu, thì một số ông bà có tuổi đã đau khổ nhiều trong đời sống chỉ gật đầu nhưng không thể chấp nhận. Nếu muốn tìm tình yêu và được chấp nhận, trước tiên phải yêu và chấp nhận, bởi vì tình yêu chỉ có thể nhận sau khi cho. Không ai phản đối điều Giôsê nói. Họ đã hiểu biết chàng và ý thức rằng điều chàng nói có một ý tưởng và cảm nghĩ rất sâu xa, và nó phát xuất từ sự hiểu biết thâm thúy về đời sống. Mọi người đều muốn nghe chàng nói, và nhiều người cũng đồng ý với chàng.
Một trong những người bạn của Vu-Di đi dự lễ tối đó tên là Phiên và vợ anh là Ái. Họ nhập vào đám người ngồi thành vòng tròn chung quanh Giôsê. Họ đến cùng với Massia là bạn của gia đình. Họ chỉ nghe mà không tham gia vào những cuộc thảo luận. Massia một vài lần muốn hỏi, nhưng nghĩ rằng những câu hỏi của mình chắc không hấp dẫn đối với những người khác, nên nàng lại thôi.
Khi buổi dạ hội chấm dứt, Massia giới thiệu Phiên và Ái với Giôsê. Họ làm bạn với nhau ngay. Phiên cởi mở và bình dân. Chàng nói chuyện hài hước với Giôsê ngay từ lúc đầu, «Một người tử tế như anh thì làm sao có thể làm bạn với Vu-Di?». Giôsê cười. «Dễ lắm. Đối với Vu-Di, thấy anh ấy sao là đúng vậy. Không mưu mẹo, không gian xảo. Không phức tạp, không giấu giếm. Ước gì có được nhiều người như anh ta».
«Anh thích Vu-Di lắm, phải không?», Phiên hỏi, nhưng không lấy làm lạ lắm.
«Tại sao không?». Đó là câu trả lời đơn sơ của Giôsê.
«Hỏi thử thôi. Không có gì, Giôsê. Anh là người tôi thích. Nếu tôi có thể làm giúp được gì, anh cứ gọi, tôi sẽ đến». Khi Phiên nói thế, thì rõ ràng là tình bằng hữu của họ đã trở nên keo sơn. Anh, Vu-Di và gia đình Sanđê, đúng hơn là cả nhóm, cùng có một tôn chỉ. Đó là thực tế, thành thật và yêu thương. Giôsê nghĩ đến các Tông đồ và đời sống vất vả cũng như ngôn ngữ cộc cằn của các ông, khi các ông nghĩ rằng Giêsu không muốn nghe các ông.
Khi họ còn đang nói chuyện thì Aron đến. Đợi cho họ nói xong, ông bảo Giôsê rằng vị tư tế muốn gặp chàng. Một nụ cười tươi nở trên môi chàng, và khi chàng thấy Massia ở đó chàng nháy mắt với nàng như thể chàng biết việc gì rồi.
Văn phòng của vị tư tế rất ngăn nắp. Ông là một học giả, và hầu hết những sách vở dọc trên tường ông đã đọc hết, không phải như nhiều người chỉ mua sách để chưng. Sàn nhà trải một tấm thảm lông màu nâu. Có mấy cái ghế nhung màu nâu sậm được đặt chung quanh bàn viết của ông.
Khi Giôsê bước vào, vị tư tế đứng lên niềm nở chào chàng. Ông kéo ghế mời Giôsê, và cả hai cùng ngồi xuống.
«Giôsê», tư tế Di-Ninh bắt đầu, «Cám ơn anh đến gặp tôi. Tôi biết Aron đưa xe anh về mỗi tối thứ sáu, vì thế tôi không muốn ông ấy đợi lâu. Điều tôi sắp nói sẽ không dài dòng lắm, và tôi hy vọng anh thứ lỗi cho».
Giôsê lắng nghe vị tư tế nói tiếp, «Dân chúng của tôi bắt đầu thích anh trong những tháng qua. Họ rất cảm kích những buổi nói chuyện ngắn của anh mỗi tuần. Họ chưa bao giờ gặp một người như anh, và tôi phải thú nhận là tôi đồng ý với họ. Anh là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng tôi. Trong tuần qua, một vài người trong ủy ban đến gặp tôi và đề nghị anh diễn thuyết cho toàn thể cộng đoàn. Tôi rất ngạc nhiên, vì tôi cũng đang nghĩ như vậy, nhưng tôi hơi ngại đề xướng lên. Tôi nói với họ là không có gì ngăn trở, và tôi nghĩ rằng ý kiến đó rất hay. Họ yêu cầu tôi thảo luận với anh về việc này và hỏi xem anh có đồng ý không. Như vậy, anh bạn Giôsê, tôi sẽ rất hãnh diện nếu anh nhận lời nói chuyện với cộng đoàn chúng tôi vào buổi lễ thứ sáu tuần tới».
Giôsê thích lắm. Nước mắt dâng lên mắt khi chàng nhớ lại một lời mời tương tự lâu lắm rồi. «Thưa thày, thày không thể tưởng tượng được tôi vui sướng như thế nào», Giôsê nói. «Chính tôi là người hân hạnh được thày tiếp đãi nồng hậu và tử tế. Tôi rất vui sướng được nói chuyện với dân chúng của thày Thứ Sáu tuần tới».
«Gấp quá không? Anh có cần thời giờ để chuẩn bị không?», vị tư tế hỏi.
«Không gấp, tôi đã chuẩn bị từ lâu».
«Được, thế là xong, tối Thứ Sáu nhé».

Hai người bắt tay nhau, và vị tư tế tiễn Giôsê ra cửa. 
____________________________________

Chương trước (12) <=> Chương sau (14)



Comments

Popular posts from this blog

Chân Dung Đức Giêsu (Lm Jos. F. Girzone)

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Cốt tuỷ chung của các tôn giáo