14 Chương mười bốn ‒ Công việc còn dở dang
Chương mười bốn
Công
việc còn dở dang
Khi
những ngày cuối cùng của cuộc đời Đức Giêsu sắp kết thúc, chúng ta thấy ngài
rất điềm tĩnh và can đảm trước cái bất hạnh sắp đến. Ngài thấy trước các biến
cố và tiếp tục thi hành sứ mệnh Cha của ngài giao phó cho. Ngài biết rằng mình
không thể ra đi trước khi mọi sự được hoàn thành. Không gì có thể thay đổi điều
đó. Vì thế ngài chú tâm đến các diễn tiến. Chẳng hạn lễ Vượt Qua với các nhân
vật và biểu tượng mà ngài nghĩ đó là hình ảnh của việc hy tế của chính mình để
chuộc tội cho nhân loại. Có những công việc còn đang dỡ dang với các môn đệ. Các
ông vẫn chưa biết ngài là ai. Phêrô tuyên xưng ngài là Vị Cứu Tinh, là đấng
Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta không biết ông có hiểu lời tuyên
xưng của ông không. Các môn đệ khác thì còn kém hơn. Người Dothái khó mà chấp
nhận một người đi lại ngoài đường là Thiên Chúa. Ngày kia, Đức Giêsu đem Phêrô,
Giacôbê và Gioan lên núi. Khi ngài cầu nguyện thì Maisen và Êlia hiện ra và bàn
luận với ngài về các biến cố sắp xảy đến. Các môn đệ thấy thế, đâm ra sợ hãi. Không
thể ngờ được Maisen và Êlia nói chuyện với ngài! Ngài phải là một nhân vật rất
quan trọng, có thể ngài là Vị Cứu tinh. Các môn đệ nghĩ sao? Các ông rất thán
phục và muốn xây một ngôi đền để kính nhớ biến cố này. Giờ đây ba ông nhìn
Giêsu với cái nhìn mới, cái nhìn này sẽ ở mãi với các ông và giúp các ông hiểu
được ý nghĩa của các biến cố hãi hùng sắp xảy ra. Giờ đây các ông biết những gì
sắp xảy ra nằm trong kế hoạch mà Thiên Chúa dã sắp đặt sẵn cho Thầy của mình. Mặc
dù các ông không thông hiểu, nhưng kế hoạch này đang diễn ra trong cuộc đời của
Đức Giêsu và của các ông. Các ông cảm thấy đó là một định mệnh lạ lùng.
Đức
Giêsu nói nhiều điều trong những ngày cuối cùng này. Vương quốc của Thiên Chúa
là mối quan tâm nhất của ngài. Ngài không những nói với các môn đệ nhưng với
những người theo ngài về vương quốc và ngài hiểu vương quốc như thế nào. Nó như
một cánh đồng lúa mà kẻ thù đã lén gieo cỏ lùng vào đấy để phá hoại mùa màng. Nó
giống như một chủ điền sáng sớm đi thuê một số thợ làm vườn nho với số lương ấn
định. Sau đó ông lại thuê thêm những người thợ khác. Cuối ngày, ông bảo đốc
công trả lương đồng đều cho thợ, làm những người vất vả suốt ngày phải sửng sốt.
Đó là những điều ngài gợi cho biết sẽ xảy ra trong Vương quốc khi ngài đi rồi.
Ngài
cũng ví vương quốc ở trần gian như một con buôn đi tìm ngọc. Khi tìm được một
viên ngọc quý, anh về bán hết tài sản để tậu nó. Vương quốc cũng giống như một
kho vàng chôn trong đồng lúa, và người tìm ra nó sẽ bán hết tài sản mà mua nó.
Trong
những tỉ dụ đó, Đức Giêsu cho biết vương quốc là vô giá, nó rất quí báu nên
người ta sẵn sàng hy sinh tất cả để gia nhập. Nhưng ngài cũng rất thực tế và
bảo những ai theo ngài rằng vương quốc ở trần gian là gia đình gồm những người
yếu đuối, què quặt cần được cứu chuộc. Do đó, đừng nghĩ là sẽ có một xã hội
hoàn hảo.
Ngài
ví vương quốc như người đi đánh cá. Anh kéo lưới vào bờ mà lựa cá, có con tốt
có con thối. Vương quốc trần gian như thế đó, Giáo hội như thế đó. Ngài cũng ví
vương quốc như người đi chài lưới trong hồ nước. Anh xúc từ đáy hồ lên đủ thứ. Đồ
tốt thì để dùng hay bán, còn đồ xấu và rác rưới thì quăng đi. Đó là cách thức Đức
Giêsu dạy các môn đệ và chúng ta về giá trị của vương quốc ở trần gian mà ngài
ban cho chúng ta. Nhưng vương quốc cũng gồm những người tội lỗi với nhiều hành
vi xấu xa. Đừng nghĩ rằng vương quốc chỉ gồm những người tốt lành. Ở cấp bậc
nào cũng thế, vương quốc sẽ luôn có những người tội lỗi. Khi những người tội
lỗi bị loại ra, thì nó sẽ không còn là Giáo hội của đấng Chăn Chiên Lành. Vì
thế hãy cố bám lấy kho tàng. Khi thấy những cái xấu trong vương quốc thì đừng
thất vọng mà đi tìm những ảo tưởng vô thực chất. Nhiều người đã làm thế trong
suốt lịch sử.
Đức
Giêsu cũng quan tâm đến thái độ của các môn đệ. Khi ngài đi ngang qua vùng Samaria trên đường đi
Giêrusalem, dân Samaritanô thấy bị đụng chạm và tức giận vì ngài đi Giêrusalem.
Họ không muốn mời ngài vào làng. Giacôbê và Gioan bực tức và hỏi ngài có nên
gọi lửa từ trời xuống thiêu đốt họ không. Đức Giêsu phải lo âu vì qua bao năm
sống với ngài mà các môn đệ vẫn chưa thấm nhập tinh thần của ngài. Ngài bèn đặt
cho hai ông cái tên ỏCon cái sấm sétõ vì tính ưa trả thù của hai ông.
Ngày
nọ Phêrô đến hỏi Đức Giêsu, «Thưa thày, tôi
phải tha thứ cho kẻ thù bao nhiêu lần? Bẩy lần phải không?» Ngài đáp, «Không phải bẩy lần, mà bẩy
mươi bẩy lần. Họ phạm đến anh bao nhiêu lần, là anh phải tha bấy nhiêu.»
Câu chuyện chấm dứt ở đó. Phêrô bỏ đi, tay gãi đầu. «Bẩy mươi bẩy lần. Nhiều quá. Bẩy lần thì cũng đã quá lắm rồi. Không thể
được, bẩy mươi lần bẩy.»
Nhiều
người không hiểu lời Đức Giêsu nói, nhưng rõ ràng là ngài muốn nói thế. Có phải
đấy chỉ là cách nói, hay ngài thật sự muốn như vậy?
Bên
ngoài xem ra Đức Giêsu không cố ý đặt một gánh nặng tâm lý lên dân chúng. Ngài
đến để cất nó đi khỏi tâm hồn họ. Thật là phi lý khi ngài đặt nó lên những
người theo ngài. Ngài có mục đích gì?
Tôi
suy nghĩ mãi về vấn đề phải tha thứ này. Nếu suy niệm về đời sống của ngài, thì
thấy ngài luôn thi hành điều ngài giảng dạy. Ngài luôn luôn tha thứ, mặc dù
không thấy nói rõ ràng lắm. Nếu bạn nghĩ ngài là ai và cách thế dân chúng đối
xử với ngài, tất ngài phải bị sỉ nhục lắm. Ngài đi đến miền Nadarét là quê
hương của ngài. Những người mà ngài đã sống với trong ba mươi năm bây giờ trở
mặt và tìm cách giết ngài. Ngài lánh họ và trốn ra khỏi vùng. Suốt cuộc đời
công khai, ngài hoạt động ở vùng Caphanaum, làm nhiều phép lạ, nhưng dân chúng
trong vùng đó không tin nghe ngài và sứ điệp của ngài mà quay về với Thiên Chúa.
Điều này cũng xảy ra ở Bêsaiđa. Ngài buồn lắm vì họ không mở lòng ra. Ngài
thương khóc cho số phận của họ khi ngài thấy trước rằng quân đoàn Lamã sẽ đến
tiêu diệt họ. Ngài yêu thương Giêrusalem, nó làm tan nát lòng ngài cũng như
lòng Cha ngài qua bao thế hệ. Ngài cũng khóc khi nghĩ đến những bất hạnh sẽ xảy
đến với nó.
Một
ngày kia ngài giảng dạy dân chúng. Họ thích nghe ngài, nhưng điều ngài dạy lại
quá mơ mộng. Ngài xem ra dễ mến, nhưng lại mơ mộng. Sứ điệp của ngài lại quá
đơn sơ, quá lý tưởng. Họ thích có một chiến sĩ hơn, một tướng lãnh dũng mạnh
làm vị cứu tinh. Họ thất vọng về ngài và bỏ đi. Ngày hôm sau họ lại đến, không
phải để nghe ngài nói, nhưng lại đem đến người bệnh, người què, người mù để xin
ngài chữa cho. Không màng đến thái độ của họ đối với sứ điệp của ngài, Đức
Giêsu lại ra tay cứu chữa và ban an bình cho tâm hồn khổ đau của họ mà không
chút tị hiềm.
Cả
những kinh sư và người Pharisêu theo dõi từng bước đi của ngài, ngài vẫn cố
gắng đem họ về lại với Thiên Chúa. Khi họ mời ngài đến nhà họ dùng bữa, ngài
không bao giờ từ chối. Mặc dù họ không đối xử tử tế và lịch sự, ngài vẫn luôn
luôn nhã nhặn.
Với
tất cả những điều tốt ngài làm cho dân chúng, nhưng chỉ có một người đến cám ơn
ngài. Anh ta là người ngoại quốc. Cuối cùng kẻ thù của ngài bắt ngài và đưa
ngài đem đóng đinh. Trần truồng trên thập giá, ngài nhìn xuống kẻ thù của mình
và chỉ nói: «Lạy Cha, xin tha cho chúng; chúng
không biết việc chúng làm».
Đức
Giêsu thi hành điều ngài dạy về sự tha thứ, nhưng điều đó không giải thích được
lý do tại sao ngài lại nhấn mạnh về sự tha thứ tuyệt đối này. Hầu hết mọi người
tha thứ nữa vời, «Được rồi, tôi tha thứ, nhưng
tôi không nói chuyện với ngưới ấy nữa». Đấy không phải là tha thứ. Đó chỉ
là một hình thức trả đủa rất đích đáng, nhất là trong trường hợp đối với cha mẹ,
anh chị em, hay một người thân thích. Đó là từ chối yêu người ấy. Đó là loại
người ấy ra khỏi đời sống của mình. Đó là nói với họ rằng mình không muốn biết
việc gì xảy ra với họ, tốt hay xấu. Nếu người ấy chết, thì mình cũng đến đọc
kinh để làm trọn nghĩa vụ tình yêu. Thế là chấm dứt. Thật là nhỏ nhen! Người ta
vẫn tìm ra cách tự bào chữa rất chính đáng. Tôi có đọc một quyển sách nói về
hai anh em không nói chuyện với nhau trong nhiều năm. Một trong hai người nuôi
mẹ già đang đợi chết mà không nói cho người kia biết. Khi mẹ già chết, anh ta
cũng không báo tin. Mãi lâu sau người kia mới biết mẹ mình đã chết. Anh buồn
tủi. Quyển sách tên là Blood Brothers (Anh em ruột thịt) của tác giả Elia
Chacour. Đó là một câu chuyện thật cảm động về tình tha thứ trong một gia đình
Ả Rập-Kitô giáo ở xứ Palêtina. Tổ tiên của họ sống từ thời Đức Giêsu. Họ bị
đuổi đi và nhà cửa bị đặt mìn phóng hỏa.
Đức
Giêsu thường xuyên chứng kiến loại căm thù và xấu bụng đó. Thực ra có một lề
luật cho phép làm điều đó, «Mắt đền mắt, răng
đền răng». Nếu ai làm bạn bị thương tích, bạn được gây lại thương tích
tương tự. Trả đủa như thế rất là tai hại.
Một
ngày kia Đức Giêsu đề cập đến vấn đề đó. «Người
ta thường nói ‘mắt đền mắt, răng đền răng’, nhưng tôi nói cho các người hay nếu
tận đáy lòng các người không tha thứ cho anh em, thì Cha của tôi ở trên trời
cũng sẽ không tha thứ cho các người». Đức Giêsu luôn luôn suy nghĩ về điều
này và đã đề cập đến nó trong nhiều dịp khác. Nó là thành phần chính trong sứ
điệp của ngài. Thực vậy, ngài đến để giao hoà thế gian với Thiên Chúa, để xin
Cha ngài tha thứ tội lỗi cho gia đình nhân loại, và yêu cầu những ai theo ngài
phải vượt trên những nhỏ nhen để tha thứ cho nhau.
Một
vài năm trước đây tôi chợt hiểu rõ ràng hơn những gì Đức Giêsu cố gắng dạy bảo
chúng ta. Tôi thấy rằng ngài đã không đặt một gánh nặng lên đầu cổ những ai
theo ngằi, nhưng là ban cho chìa khoá hoà bình nội tâm đích thực và hoà bình
trên thế gian. «Nếu bạn muốn có hoà bình
trong tâm hồn và với người láng giềng, hãy học tha thứ.» Thực vậy, ngài
nhằm đến những gì sâu xa hơn, những gì mà chính bản thân ngài thực hành. Đừng
tức giận, nhưng hãy cố gắng tìm hiểu nỗi khổ đau tạo nên bực tức của người khác.
Như thế, bạn sẽ thấy sự đau khổ và bất bình thường của họ mà cảm thông họ và
đừng để sự khổ não của họ xúc phạm đến mình. Điều đó rất chí lý. Không phải dễ
dàng làm được điều này và Đức Giêsu cũng đã thấy như vậy, nhưng đó là cách thức
độc nhất để có hoà bình. Nếu chúng ta tập sống như thế mỗi ngày, thì nó sẽ dễ
dàng hơn và sẽ trở thành một bản tính thứ hai.
Comments
Post a Comment