12 Chương 12 - «Vương quốc» đến
Chương 12
«Vương quốc» đến
Đức Giêsu
động lòng thương người nghèo và người bị đàn áp, và sự thành công của ngài đối
với họ làm ngài tin tưởng rằng cuộc giải phóng toàn diện («vương quốc») sẽ sớm xẩy ra. Vương quốc mà ngài nghĩ đến thì không
ai, cả đến ngài, có thể xây dựng được. Vương quốc này chỉ có thể đến chứ không
thể xây dựng. Vương quốc này cũng không phải từ các vương quốc hay xã hội mà
chúng ta đang có, dẫu chúng có kiện toàn hay phát triễn trong tương lai. Dẫu
những người lãnh đạo có nhiều quyền lực, nhiều ảnh hưởng hay rất hoà nhã cũng
không thể xây dựng một xã hội như thế. Quyền lực thế trần, quyền lực áp đặt ý
muốn của mình trên người khác, dẫu có khéo léo đến đâu cũng chỉ tạo ra một xã hội
khác với sự giải phóng toàn diện và tự do mà Đức Giêsu nghĩ. Con người có thể
được giải phóng khỏi hình thức thống trị này hay thống trị nọ, nhưng không ai
có thể bị ép buộc để được tự do. Chúng ta chỉ có thể tạo nên những điều kiện để
giải phóng con người nếu họ muốn. «Vương
quốc» không thể xây dựng, nhưng chỉ có thể nhận lãnh - như một món quà.
Tuy nhiên
cũng có một quyền lực có thể làm nên phép lạ. Không phải là quyền lực của tôi
hay của bạn, nhưng là một quyền lực mà chỉ có tôi mới có thể phát ra trong tôi
và chỉ có bạn mới có thể phát ra trong bạn. Quyền lực này vượt trên cá nhân bạn
và tôi, nhưng nó lại không ở bên ngoài chúng ta. Đó là quyền lực tối cao đàng
sau mọi quyền lực đang hoạt động nơi con người và thiên nhiên. Phần đông gọi đó
là quyền lực của Thiên Chúa. Bạn gọi đó là gì cũng được. Đôi khi Đức Giêsu gọi
quyền lực ấy là Thiên Chúa. Nhưng thường thường ngài gọi cách khác. Các ngôn sứ
chỉ gọi đó là Thiên Chúa: lời, lời hứa hay lời đe doạ của Thiên Chúa. Những lời
và dụ ngôn của Đức Giêsu thường nói về sự sống và quyền lực đang hoạt động
trong đời sống và trong thiên nhiên. Hoạ hiếm ngài mới thấy cần thiết để nhắc
đến tên của Thiên Chúa. Có một cái gì rất sâu xa và rất bộc lộ về cách Đức
Giêsu hiểu quyền lực tối cao thường được gọi là lời của Thiên Chúa.
Như chúng ta
đã thấy rằng đối với Đức Giêsu, quyền lực tối cao làm nên những gì không thể
làm được có thể gọi là đức tin. Đức tin làm phát sinh nơi chúng ta một quyền
lực vượt trên chúng ta. Chính nhờ đức tin mà những người bệnh, người tội lỗi, được
giải thoát khỏi tội lỗi. Cũng vậy, chính đức tin của con người làm cho «vương quốc» đến.
Đức Giêsu
không ngừng thúc giục người ta tin ở «vương
quốc» (Mt 1:15). Ngài cảm thấy phải đi từ làng này qua làng khác để rao
giảng tin mừng (Mc 1:38; Lc 4:43). Để lời rao giảng được rộng rãi hơn, ngài đào
tạo môn đệ và sai họ đi rao giảng (Mc 3:14; 6:7; Mt 10:7; Lc 9:2; 10:9,11).
Những tín hữu đầu tiên tin rằng «vương
quốc» sẽ đến khi tin mừng được rao giảng khắp thế giới (Mc 13:10). Nếu
không có rao giảng thì không có đức tin (Roma 10:17). Chỉ khi đức tin mạnh mẽ
đủ trong thế gian thì phép lạ về «vương
quốc» sẽ xẩy ra.
Cũng nguy
hiểm khi biến đức tin này thành một loại thần bí. Đức tin không phải là một
quyền lực ma thuật, nhưng là một quyết định thẳng thắn tin ở «vương quốc» của Thiên Chúa. Metanoia hay
sự thay đổi mà Đức Giêsu kêu gọi là thay lòng thay trí, thay lòng trung thành.
Tiên vàn hãy tìm vương quốc, để hết lòng vào đó (Mt 6:33). Hãy tin vào «vương quốc» để tìm an ủi và phần thưởng
(Mt 6:4, 6, 18; Lc 6:20-25). Hãy tích trữ kho tàng cho mình nơi Thiên Chúa và
trong «vương quốc» (Mt 6:19-21). Hãy
đổi lòng trung thành đối với những vương quốc hiện tại sang vương quốc của
Thiên Chúa. Hãy lấy «vương quốc» của
Thiên Chúa làm ưu tiên trong cuộc sống và đặt hết kỳ vọng vào đấy. Đó là một
kho tàng bí ẩn. Đó là viên ngọc quý. Đầu tư hết vào đó.
Đức tin là
một cuộc đổi hướng căn bản của đời sống. Nó không chịu thoả hiệp hay lưng
chừng. Không thể làm tôi hai chủ. Phải lấy «vương
quốc» và những giá trị của nó làm hướng đi căn bản cho đời sống hoặc là
không tin gì hết. Hãy thừa nhận «vương
quốc» như là eschaton và là định mệnh của nhân loại hoặc là không thừa nhận
gì hết. Thái độ lưỡng lự hoặc thoả hiệp là dấu chỉ thiếu đức tin (đức tin non
nớt), và như thế là vô ích.
Tuy nhiên,
quyền lực của đức tin không phải từ một quyết định mạnh mẽ hay một lòng xác tín
vững chải. Quyền lực của đức tin phát sinh từ chân lý của điều mình tin và hy
vọng. Nếu «vương quốc» của Thiên Chúa
chỉ là ảo tưởng, thì đức tin cũng bất lực mà không làm nên gì. Thế giới có đầy
dẫy tin tưởng mạnh mẽ và ảo huyền. Chúng chỉ đưa chúng ta đến bờ tai hoạ. Nếu «vương quốc» của Thiên Chúa mà Đức Giêsu
rao giảng là thực cho đời sống, nếu nó là chân lý về con người và những nhu cầu
của nó, nếu chỉ có nó mới đem lại cho nhân loại thoả mãn, thì lòng tin ở «vương quốc» có thể thay đổi thế giới và
thực thi điều không thể làm được. Quyền lực của đức tin là quyền lực của chân
lý.
Đức tin chân
thật không thể có được nếu không có từ bi. «Vương
quốc» mà Đức Giêsu muốn những người «vương
quốc» của tình huynh đệ trong đó mọi người được yêu thương và kính trọng
bởi vì họ là con người. Chúng ta không thể tin hay hy vọng ở «vương quốc» nếu chúng ta không có lòng
từ bi đối với đồng bạn của chúng ta. Thiên Chúa nay mạc khải ngài là Thiên Chúa
của từ bi. Quyền lực của ngài là quyền lực của từ bi. Con người có lòng từ bi
với nhau sẽ tạo nên quyền lực của Thiên Chúa trong thế gian. Đó là quyền lực
phát sinh phép lạ về «vương quốc».
Điều làm cho
«vương quốc» đến là từ bi và lòng
tin. Lòng tin, hy vọng và tình yêu (từ bi) hôm nay là mầm của «vương quốc» ngày mai. Đức tin là như hạt
cải tí hon và vô nghĩa (Mt 17:20). Nhưng không có hạt đức tin thì sẽ không có
cây cải lớn (Mc 4:30-32). Men xem ra bất lực nhưng nó lại làm cho mẻ bột nổi phồng
lên (Mt 13: 33). Một đức tin không nhân nhượng những giá trị và lo âu trần gian
chắc chắn sẽ đem lại một mùa màng xum xuê (Mc 4:3-9). «Vương quốc» sẽ là một phép lạ như những phép lạ của thiên nhiên (Mc
4:30-32; Mt 17:20).
Nhưng nếu
việc «vương quốc» đến tùy thuộc vào
đức tin của con người (đức tin đó gồm có hy vọng và từ bi), thì «vương quốc» sẽ đến không? Làm sao có thể
chắc chắn rằng sẽ có đức tin đủ trong thế gian để làm cho «vương quốc» đến? Hoặc là, tai ương sẽ lâu lắm mới xẩy ra để đức tin
có đủ thời gian bừng dậy trong thế gian? Nếu tai ương còn lâu lắm mới xẩy ra,
hay là nếu có nhiều người còn sống sót sau tai ương, liệu có gì bảo đảm rằng đa
số dân chúng sẽ tin vào «vương quốc»
mà Đức Giêsu rao giảng? Lòng tin mạnh mẽ nơi «vương quốc» đó là như một phép lạ giống như việc «vương quốc» đến.
Dẫu vậy, Đức
Giêsu chắc chắn «vương quốc» sẽ đến.
Dân chúng cứng lòng tin có thể làm trì hoãn «vương quốc» đến (Lc 13:6-9), nhưng cuối cùng rồi nó cũng sẽ đến.
Tai ương có thể xẩy ra trước, nhiều tai ương sẽ xẩy ra trước nhất, nhưng rồi «vương quốc» của Thiên Chúa sẽ là quyết
định cuối cùng (Mc 13:7-8). Cuối cùng «vương
quốc» sẽ đến bởi vì sớm muộn con người cũng sẽ tin.
Tại sao? Tại vì có
một Thiên Chúa.
Tin ở Thiên
Chúa là tin rằng sự thiện mạnh mẽ hơn sự ác và chân lý mạnh mẽ hơn gian dối.
Tin ở Thiên Chúa là tin rằng cuối cùng sự thiện và chân lý sẽ thắng sự ác và
gian dối, và Thiên Chúa sẽ chiến thắng Satan. Ai nghĩ rằng sự ác sẽ là quyết
định cuối cùng, hoặc là sự thiện và sự ác sẽ có đồng đều cơ hội thì ngưới ấy là
kẻ vô thần. Có một quyền lực hướng về sự thiện trên thế gian, một quyền lực
biểu lộ trong ước muốn và tiềm lực sâu xa nơi con người và thiên nhiên, một
quyền lực, nếu phân tích cặn kẽ, sẽ không thể chống lại được. Nếu Đức Giêsu đã
không tin như vậy, thì ngài cũng đã không có gì để nói.
Vì thế, tin ở
«vương quốc» của Thiên Chúa không
phải chỉ là chấp nhận những giá trị của nó và mơ hồ hy vọng rằng nó sẽ đến
trong trần gian. Tin ở «vương quốc»
là lòng xác tín rằng bất cứ gì chăng nữa «vương
quốc» cũng sẽ đến. Và lòng xác tín này sẽ làm cho «vương quốc» đến, bởi vì lòng xác tin này là thật. «Chân lý sẽ giải phóng anh em» (Gioan
8:32).
Tuy nhiên
không có gì bảo đảm rằng «vương quốc»
sắp đến. Đức tin có thể lan khắp thế giới cách mau lẹ và chúng ta có thể thấy «vương quốc» đến giữa chúng ta. Nhưng như
chúng ta đã bàn đến, «vương quốc» có
thể trì hoãn dài hạn. Dẫu vậy, chính Đức Giêsu đang mong đợi «vương quốc» sớm đến. «Vương quốc của Thiên Chúa sắp đến rồi»
(Mc 1:15; Mt 4:17; Lc 10:8,11). Thực vậy, hình như ngài mong nó đến trong thời
những người sống đồng thời với ngài «trước
khi thế hệ này qua đi» (Mc 13:30; 9:1). Ngài cũng nói rằng các môn đệ sẽ
không đi hết các làng mạc của Israel
trước khi «Con Người» đến (Mt 10:23).
Khi nhìn đến
các bằng chứng, kể cả các dụ ngôn và việc cấp bách rao giảng, chúng ta thấy Đức
Giêsu đang mong đợi một cái gì sắp xẩy đến trong một tương lai rất gần.
Điều này
không có ý nói rằng Đức Giêsu nói về ngày giờ của «vương quốc» đến. Theo Mátcô, Đức Giêsu chối rằng ngài biết ngày và
giờ (Mc 13:32), nhưng Thiên Chúa sẽ can thiệp thình lình và không ai ngờ đến,
giống như kẻ trộn ban đêm hoặc như sấm sét (Mc 13: 33-37; Mt 24:42-44; 25:13;
Lc 12:35-40; 17:24). Không ai biết khi nào «vương
quốc» đến, vì thế phải tỉnh thức hoặc canh chừng. Có thể các Kitô hữu sơ
khởi giải thích biến cố này cặn kẻ hơn là Đức Giêsu muốn. Nhưng rõ ràng là Đức
Giêsu chống lại mọi dự đoán về ngày giờ dựa vào các dấu lạ và điềm báo (Lc
17:20-24).
Tại sao Đức Giêsu
nhấn mạnh rằng «vương quốc» sắp đến?
Điều mà chúng
ta không chú ý là không phải Đức Giêsu nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ sớm can thiệp.
Đó chỉ là tư tưởng chung của thời đại. Chính vì tin như vậy mà những người
Ếtsên bỏ vào sa mạc để chuẩn bị. Chính sự tin tưởng đó tạo nên viễn tượng và
tính toán cho các văn sĩ khải huyền. Chính tin tưởng đó đã làm cho những người
Dêlót mong đợi Thiên Chúa đến và ban cho họ chiến thắng người Lamã để họ xây
dựng vương quốc Thiên Chúa tại Israel .
Gioan Tẩy giả kêu gọi dân chúng lãnh phép rửa thống hối vì chính ông đang chờ
Thiên Chúa sớm can thiệp «dân Israel sẽ được
xét xử». Nói cách khác, lòng hy vọng và mong đợi đã đến cực độ chưa từng
thấy. Tình cảnh đã chín mùi, chiến tranh với người Lamã đang ngấm ngầm và sắp
có thay đổi. Israel
sẽ chiến thắng người Lamã chăng? Vị Cứu tinh sẽ đến chăng? Ngày tận thế sắp đến
chăng?
Cũng như
Gioan, Đức Giêsu tin rằng Israel
đang lao đầu vào hủy diệt ngày gần đây. Biến cố sắp xẩy đến là tai ương.
Gioan có phản
ứng tiêu cực đối với tai ương. Ông cố gắng tránh nó hay cứu một số người khỏi
tai ương. Đức Giêsu thì phản ứng tích cực. Đó là thời gian của chân lý. Đe doạ
tai ương gần kề là cơ hội độc nhất để «vương
quốc» đến. Đứng trước sự tàn phá toàn diện, Đức Giêsu thấy đây là cơ hội để
ngài kêu gọi một sự thay đổi tức khắc và toàn diện. «Nếu không thay đổi, anh em sẽ bị hủy diệt» (Lc 13:3,5). Nếu thay
đổi và tin tưởng, thì vương quốc sẽ đến chứ không phải tai ương.
Cuộc khủng
hoảng chưa từng thấy này đem lại cho dân chúng một cơ hội độc nhất để lựa chọn
giữa «vương quốc» và tai ương. Đó là
đề tài của nhiều dụ ngôn hoặc châm ngôn. Điểm mà dụ ngôn người quản lý bất công
nêu lên là khi thấy phải mất mát hết, anh liền hành động ngay và dứt khoát, để
bảo toàn hạnh phúc tương lai cho mình (Lc 16:1-8). Ngược lại, người phú hộ ngu
xuẩn thì xây những kho lớn hơn rồi lại mất mát hết (Lc 12:16-20). «Được cả thế gian mà mất mạng sống thì lợi
lộc gì?» (Mc 8:36). Nếu dân chúng, nhất là các ngươi lãnh đạo, không thấy
trước tai ương mà đề phòng, thì sẽ bị bất ngờ, giống như người chủ nhà say ngủ
khi kẻ trộm đến (Mt24:43), hoặc như người có nhà bị đổ trong cơn giông bảo vì
nhà xây trên cát (mt7:24-27). Bây giờ là lúc phải quyết định và hành động,
không phải chỉ để tránh sự mất mát toàn diện nhưng cũng vì có sự lựa chọn tốt
hơn: đó là một kho tàng lớn, một viên ngọc quí, một bữa tiệc thịnh soạn (Mt
13:44-46; Lc 14;15-24). Nếu còn chần chờ thì chỉ làm mất cơ hội độc nhất. Ngày
mai thì trễ mất rồi.
«Vương quốc» sắp đến. Đó không phải là
một điều chắc chắn, nhưng là một cơ hội. Điều chắc chắn đối với Đức Giêsu là
tai ương hoặc vương quốc sẽ đến trong tương lai gần. Đối với ngài, eschaton
hoặc điều Thiên Chúa sắp làm, là một trong hai biến cố đó. Đó là điều nói lên
và quyết định thời gian của Đức Giêsu như là thời gian để lựa chọn và hành
động, là một cơ hội độc nhất.
Mọi ám chỉ,
trực tiếp hoặc gián tiếp, đến việc Thiên Chúa sắp can thiệp, đều minh xác kết
luận này. Đức Giêsu không bao giờ an ủi những người nghèo rằng «vương quốc» gần đến rồi, nhưng ngài tiên
đoán rằng «vương quốc», khi nó đến,
sẽ thuộc về họ. Không có gì bảo đảm rằng «vương
quốc» sẽ sắp đến. Biến cố sẽ xẩy đến «trước
khi thế hệ này qua đi» và nếu không hoán cãi, thì tai ương sẽ xẩy đến(Mc
13:2-4,30; Lc 13:3,5). Cách chung, biến cố sắp đến không phải là «vương quốc» đến nhưng là «Con Người» (Mc 13:26; 14:62; Mt 10:23;
19:28; 24:37-39,44; Lc 17:24; 21:36). Không biết có phải chính Đức Giêsu dùng
thành ngữ đó hay không, nhưng ám chỉ việc Con Người đến chắc chắn là ám chỉ đến
việc phán xét (Mc 8:38; Mt 10:32-33; 19:28; 24:37-39). Rất có thể thành ngữ «Con Người sẽ đến» là chỉ «người sẽ đến», đó là một quan án mà
Gioan Tẩy giả nói. Bất luận thứ gì sẽ xảy ra thì cũng ám chỉ đến biến cố phán
xét (Mt 24:37-39).
Trong một ít
biến cố nói «vương quốc» gần đến (Mc
1:15; 9:1; Mt 4:17; Lc 10:11) thì văn cảnh cũng cho thấy rõ là chúng ta đang
đọc một lời cảnh cáo về cuộc phán xét sắp đến, vương quốc hay tai ương. Như thế
Đức Giêsu không nói, «Hãy vui mừng, vì
vương quốc sắp đến», nhưng «Hãy hối
cải, vì vương quốc sắp đến» (Mt 4:7; Mc 1:15; Mt 3:2). Mọi ám chỉ về một số
biến cố sắp đến là những lời cảnh cáo.
Chúng ta cũng
có thể kết luận về đề tài «khẩn trương»
trong các Phúc âm. Bởi vì công việc truyền giáo rất là khẩn trương, nên người
rao giảng không còn thì giờ để nhìn lại đàng sau một khi họ đã tra tay vào cày
(Lc 9:62). Không còn thì giờ để về chôn cha của mình, nghĩa là đợi cho ông chết
(Lc 9:59-60). Không còn thì giờ để ghé lại thăm bạn bè hay bà con (Lc 9:61;
10:4). Nhưng phải đi nhẹ nhàng và đi lẹ (Lc 9:3; 10:4). Công việc khẩn trương
đòi phải bỏ hết mọi thứ ngay lập tức, bỏ lưới, bỏ công việc, nhà cửa, gia đình
và cha mẹ, để đi theo Giêsu mà rao giảng «vương
quốc» của Thiên Chúa (Mc 1:20; 10:28)
Tại sao?
Bởi vì Israel
đang lao đầu vào hủy diệt. Giả sử có một vương quốc huy hoàng được bảo đảm
trong tương lai, thì không cần phải cấp bách rao giảng. Không nên mất thì giờ,
bởi vì cách độc nhất để ngăn chận Israel lao đầu vào hủy diệt là phải thay đổi
lòng dạ, một cuộc thay đổi toàn diện để làm cho «vương quốc» đến chứ không phải tai ương.
Giả sử «vương quốc» đến thay vì tai ương, thì
những kẻ không thuộc về vương quốc sẽ cảm thấy bị tai ương. Họ cũng sẽ cảm thấy
rơi vào tăm tối (Mt 8:12; 22:13; 25:30, mất hết những gì họ đã cố công lưu trữ
suốt đời. Những ai tìm hạnh phúc và an ninh nơi tiền bạc, uy tín, phe phái và
thế lực, sẽ thấy rằng chúng không còn chỗ đứng trong thế giới mới của «vương quốc». Họ sẽ cảm thấy đó là một sự
mất mát to lớn, mất hết mọi sự đã đem ý nghĩa cho đời họ, đó là chính bản thân
bị huỷ diệt. Họ sẽ không bị loại ra khỏi «vương
quốc», nhưng chính mình tự loại ra lấy.
Tai ương cá
nhân này thường cũng được mô tả như sống trong tăm tối hoặc như bị quăng vào
lửa của Ghêhenna. Đó là tên một thung lũng ngoài thành Giêrusalem. Từ nhiều thế
kỷ, đó là nơi mà nhiều sự nhờm tởm đã xẩy ra: trẻ con bị thiêu sống để tế thần
(Sách Ký Sự II: 28:3; 33:6; Giêrêmia: 7:31). Đó là một nơi bất thánh, nhơ bẩn
và xấu xa, và người ta dùng nơi ấy để đổ rác cho thành Giêsrsalem. Cũng như mọi
hố đổ rác khác, đó là một chỗ hôi hám, mất vệ sinh mà mọi vật đều mục đi và bị
côn trùng ăn. Lửa cũng âm ỉ cháy ở đó để thiêu trụi rác rến. Số phận đen tối
nhất của con người cũng chỉ bằng thế, nghĩa là bị quăng vào ổ rác Ghêhanna âm ỉ
lửa để cháy mòn. Đó là nguồn gốc của hình ảnh hoả ngục của người Dothái và
người Kitô.
Hình ảnh lửa
và giòi bọ là do hố đổ rác Ghêhenna tạo nên. Nên lưu ý rằng giòi bọ ở đó không
bao giờ chết, cũng như lửa chẳng bao giờ tắt. Còn mọi sự mọi người thì tan rã
và bị thiêu hủy hết. Ghêhenna là hình ảnh của hủy diệt toàn diện, nghịch với
sống còn. Nếu Đức Giêsu đã dùng hình ảnh Ghêhenna, thì đây là điều có trong tâm
trí ngài. «Đừng sợ hãi những kẻ chỉ giết
được thể xác mà không giết được linh hồn; hãy sợ người có thể giết cả xác lẫn
hồn trong Ghehenna» (Mt 10:28).
Hoả ngục là
hủy diệt linh hồn hay là toàn thể cá tính con người: đó là cái mà sách Khải
Huyền gọi là cái chết thứ hai (KH 2:11; 20:6,14; 21:8). Theo ý nghĩa đó, thì
một số người như đã chết rồi. «Để người
chết chôn người chết» (Mt 8:22). Ít người trong bọn họ tìm được con đường
đến đời sống thực và chính đáng: «Hãy vào
cửa hẹp, bởi vì đường đưa đến huỷ diệt thì rộng thênh thang và nhiều người theo
đường đó: nhưng chính cửa hẹp và đường khó đi mới đưa đến sự sống, và cũng ít
người tìm được» (Mt 7:13-14). Do ảnh hưởng của triết lý Hylạp cho rằng linh
hồn là bất tử, người Kitô hiểu Ghêhenna hay hoả ngục là nơi đau khổ triền miên
cho linh hồn lìa xác mà không hề bị huỷ diệt.
Tuy nhiên
không phải vì tai ương của một số cá nhân mà Đức Giêsu hoạt động một cách khẩn
trương. Nhưng tai ương xã hội và chính trị mà Israel đang lao đầu đến sẽ chôn vùi
mọi người - kẻ vô tội cũng như người có tội. Người vô tội cũng ít được tha
trong cuộc tàn sát (Mc 13:14-20). Họ được khuyên hãy bỏ chạy và «trốn lên núi» (Mc 13:14-20). Việc làm
khẩn trương là ngăn chận tai ương này bằng cách khuyến dục mọi người hãy lợi
dụng cơ hội mà quy hướng đời sống của mình về «vương quốc» của Thiên Chúa.
Như chúng ta
biết, chính tai ương đã xảy đến chứ không phải vương quốc. Vào năm 70 người
Lamã hủy diệt thành Giêrusalem và Đền Thờ. Vào năm 135 họ hoàn thành tai ương
đó khi huỷ diệt quốc gia Israel và lưu đày người Dothái khỏi Palêtina. Đó là
một cuộc tàn sát tàn nhẫn gây nên đau thương cũng như chết chóc không tả được.
Đức Giêsu đã
không sai lầm; ngài đã thất bại, hay đúng hơn dân chúng đã làm cho ngài thất bại.
Một cơ hội độc nhất đã bị đánh mất. Tuy nhiên đó không có nghĩa là hết. Còn có
một cơ hội nữa và còn nữa, bởi vì «vương
quốc» của Thiên Chúa cuối cùng sẽ đến - Thiên Chúa có quyền trên hết. Những
người Kitô đầu tiên đã áp dụng lời tiên tri của Đức Giêsu vào những hoàn cảnh
mới của họ.
Sứ điệp của Đức
Giêsu cũng như của mọi ngôn sứ không phải là vô thời gian. Tuy nhiên nó cũng
nói lên một cái gì liên hệ đến nhân loại và Thiên Chúa một cách rất chân thực,
nên có thể áp dụng cho những thời gian và địa điểm khác. Một khi sứ điệp được
truyền ra khỏi Palêtina không còn mang màu sắc khủng hoảng chính trị, và nhất
là sau khi người Lamã đã tiêu diệt quốc gia Israel , thì người ta nghĩ rằng phải
thích nghi sứ điệp với hoàn cảnh mới , đúng vậy, bất cứ hoàn cảnh nào. Điều này
đã được thực hiện bằng cách khải-huyền-hoá (apocalyptizing) sứ điệp. Tôi không
chủ ý tranh luận ở đây về cái hay cái dỡ của diễn tiến này, nhưng chỉ nêu lên
rằng đó là cách các Phúc âm gia đã giải thích sứ điệp nguyên thuỷ của Đức Giêsu.
Chúng ta cũng
có thể đọc thấy cái diễn tiến khải-huyền-hoá sứ điệp này trong phúc âm Mátcô,
cả trước khi quốc gia Dothái bị tiêu diệt. «Điều
mà tôi đang nói với anh em, tôi cũng muốn nói với mọi người» (Mc 13:37).
Eschaton (thế mạt) trở thành một biến cố siêu lịch sử, khác với tai ương chính
trị sắp xảy đến (Mc 13:7,10,29). Sự phán xét siêu-lịch-sử trong ngày cuối cùng
được dùng theo lối khải huyền để răn dạy luân lý và đe doạ cá nhân hơn là xã
hội. Mátthêu còn đi xa hơn nữa khi nhấn mạnh về ngày phán xét và phân chia công
tội.
Điều mà Đức
Giêsu nói về ngày cuối cùng không phải là khải huyền, nhưng là tiên tri. Chúng
ta có thể tìm hiểu được Đức Giêsu muốn nói gì với dân chúng thời ngài, trước
khi có Kitô giáo, bằng cách phi-khải-huyền (de-apocalyptizing) các Phúc âm.
Comments
Post a Comment