11 Chương 11 - Thời gian mới


Chương 11
Thời gian mới

Chúng ta ngày nay không thể hiểu được Đức Giêsu nếu không tìm hiểu ngài và các người đồng thời với ngài nghĩ thế nào về thời gian. Vì không tìm hiểu ý tưởng đó nên nhiều học giả đã không ngớt tranh luận và tạo ra nhiều vấn đề nan giải. Lấy tỉ dụ vấn đề «vương quốc»: Đức Giêsu có hiểu đó là vấn đề hiện tại hay tương lai, hay cả hai? Nếu là cả hai, thì ngài liên kết hiện tại với tương lai thế nào? Nhưng đặt vấn đề như vậy là không đúng, vì người ta tìm hiểu lời lẽ của Đức Giêsu theo cách thức chúng ta ngày nay hiểu về thời gian. Những cuộc tranh luận không ngừng về ý nghĩa của ngày thế mạt hay là tận thế trong Thánh Kinh đã không giải quyết được gì, vì thiếu ý thức rõ ràng về ý niệm thời gian của Thánh Kinh.
Ý niệm của Tây phương về thời gian xem nó như lượng độ. Khi nghĩ về một thời lúc nào, chúng ta dùng đồng hồ hay lịch. Chúng ta xác định một thời đại hay một nhân vật lịch sử theo hai niên đại, dĩ vảng và tương lai. Thời gian được hiểu đây như là một không gian trống rỗng đã được đo đạc, đầy dẫy những biến cố hơn kém quan trọng. Thờì gian này có thể gọi là thời gian đo đạc hay lượng thời gian.
Theo một trong những học giả danh tiếng về Cựu Ước là ông Gerhard von Rad, «Một điều chắc chắn là ngày nay người ta có ý niệm về thời gian như là một tuyệt đối, trống không, giống như những khoảng trống của một câu hỏi chờ câu trả lời, loại thời gian này rất xa lạ đối với dân Israel.»
Người Hêbrơ nói và nghĩ về thời gian như là phẩm. Điều này đọc thấy rõ ràng trong đoạn văn danh tiếng của sách Giảng Viên sau đây (3:1-8):
«Dưới bầu trời mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
thời để sinh,
thời để chết;
thời để trồng,
thời để nhổ cây trồng;
thời để giết,
thời để chữa;
thời để phá,
thời để xây;
thời để khóc,
thời để cười;
thời để than van,
thời để nhảy mừng...
thời để yêu,
thời để ghét;
thời đánh giặc,
thời hoà bình.»
Đối với người Hêbrơ, biết thời gian không phải là biết ngày tháng, nhưng là biết loại thờì gian gì. Có phải là thời gian để khóc hay để cười, thời gian giặc giả hay thời gian hoà bình? Không biết thời gian mình đang sống có thể là một điều rất tai hại. Cứ tiếp tục than vản và chay tịnh trong thời hồng phúc là như gieo giống trong mùa gặt hái (Dêkaria 7:1-3). Thời gian là phẩm chất hay trạng thái của biến cố.
Ý niệm này thật ra cũng không xa lạ với chúng ta lắm. Chúng ta vẫn thường nói thời tốt, thời xấu, thời khó khăn, thời tân tiến, thời chiến tranh. Chúng ta nói thời gian chưa chín mùi cho điều gì hay công việc làm ăn không có tương lai. Chúng ta cũng nói một tư tưởng thuộc thế kỷ 19. — đây thời gian không còn là lượng, nhưng là phẩm của cái gì đang xẩy ra, phẩm chất kinh nghiệm của con người.
Tuy nhiên khi nói đến lịch sử thì chúng ta lại trở về với ý niệm về thời gian như là lượng. Chúng ta đặt mình trong dòng thời gian tưởng tượng với một dĩ vảng phía sau và một tương lai phía trước. Người Dothái thời cổ không xác định mình đứng ở vị trí nào cả. Họ xác định các biến cố, các môi truờng, thời gian, rồi xem mình như đang trong một cuộc hành trình qua các điểm cố định này. Mọi cá nhân như hành trình qua các điểm này. Những người trong quá khứ thì đã ở đó trước và tiếp tục đi trước. Những người trong tương lai thì sẽ đến sau. Khi cá nhân đạt đến một điểm cố định, tỉ dụ lễ Vượt qua hay thời hạn hán, thì họ trở thành người đồng thời với tổ tiên hay hậu sinh của mình là những người đã và sẽ trải qua cùng một thời. Tổ tiên và hậu sinh của họ chia xẻ cùng một loại thời gian, mặc dù có những năm chia cách.
Thời hiện tại được nghĩ là được định đoạt do những hành động cứu vớt của Thiên Chúa trong quá khứ (tỉ dụ cuộc Xuất Hành) hoặc một hành động cứu vớt của Thiên Chúa trong tương lai. Các ngôn sứ đặt biệt quan tâm về hành động thứ hai này. Những đại ngôn sứ của Israel nói cho dân chúng biết ý nghĩa của thời gian mà họ đang sống khi suy đến hành động mà Thiên Chúa sắp thi hành. Các ông nghĩ rằng không thể hiểu được thời hiện tại nếu chỉ nhìn về dĩ vảng. Do đó các ông thúc giục dân chúng hãy quên đi dĩ vãng, đừng dựa vào nó để tìm ý nghĩa, an ninh và cứu độ. Và các ông nói rằng «căn bản của ơn cứu độ là nằm trong hành động tương lai của Thiên Chúa.»
Biến cố tương lai sắp xảy ra xác định hiện tại, nó đem lại ý nghĩa cho cuộc sống mỗi người trong hiện tại và bảo người ta phải làm hay không phải làm điều gì. Như vậy biến cố tương lai đã dứt khoát và chắc chắn rồi - đó là thế mạt, hay biến cố cuối cùng, đối chiếu với thời gian hiện tại. Bởi vì người Dothái ngày xưa không có ý niệm về thời gian như là đơn vị trừu tượng như chúng ta có, nên họ không nghĩ đến cái không gian trống trơn bên kia biến cố mà họ đang mong đợi. Đối với họ biến cố tương lai là dứt khoát và cuối cùng rồi, bởi vì nó xác định mọi sự trong đời sống của họ ngay bây giờ.
Các ngôn sứ luôn luôn xem hành động tương lai của Thiên Chúa là một biến cố hoàn toàn mới mẻ và chưa từng thấy... Nó hoàn toàn đoạn tuyệt với dĩ vãng, «nó rất sâu xa ... nên không thể xem như là nối tiếp những gì đã xảy ra trước». Nó là thời gian mới, hiểu theo nghĩa phẩm hơn là lượng. Nếu nói về thế mạt như thể vượt qua bên kia lịch sử, hiểu theo nghĩa vượt qua thời gian như là lượng, là lẫn lộn hai ý niệm khác nhau về thời gian. Hơn nữa, nếu thời gian hiện tại được hoàn toàn xác định do hành động mới mẻ và chưa từng thấy của Thiên Chúa, thì thời hiện tại là một thời gian hoàn toàn mới mẻ, một kỷ nguyên mới.
Nhờ hiểu như thế đó mà các sứ ngôn thấy được tương lai trong hiện tại. Thế mạt, hay là biến cố tương lai trọng đại, phải đọc từ «chân trời của lịch sử thế giới» cũng thường được gọi là những dấu hiệu của thời gian. Các ngôn sứ được soi sáng để đọc lời của Thiên Chúa nói cho thời đại của các ông qua những dấu hiệu của thời gian. Chính sự hiểu biết sâu sắc về thời gian này tạo nên ngôn sứ.
Do đó sứ điệp của một ngôn sứ không bao giờ là một sứ điệp không mang màu sắc thời gian và xây dựng trên những ý tưởng vô thời gian. Nhưng nó là một lời ngỏ với dân chúng trong một trường hợp cụ thể về ý nghĩa của thời của họ và những điều họ nên và không nên làm. Những thế hệ sau có thể được dẫn dắt do lời của một sứ ngôn trong những thế kỷ trước, nếu họ thấy mình cũng sống vào một thời gian tương tự và một cách nào đó như là người đồng thời với ngôn sứ. Giá trị và hiệu quả của sứ điệp của một ngôn sứ là căn cứ vào một thời gian nhất định. Ý tưởng về một sứ điệp có giá trị lớn lao mà vô thời gian tính là một ý tưởng Tây phương dựa trên ý niệm thời gian Tây phương.
Do đó thế mạt là một tương lai thực, khác với mọi biến cố dĩ vãng, và đó là biến cố độc nhất mang lại ý nghĩa cho tình cảnh hiện tại. Thế mạt là một biến cố tương lai, nhưng xét theo khía cạnh nó ảnh hưởng và quyết định đời sống của chúng ta, thì nó là một biến cố hiện đại, một biến cố có thể đọc thấy được qua những dấu hiệu của thời gian.
Điều này không có nghĩa là dân Dothái không có có ý niệm về lịch sử. Nó chỉ muốn nói rằng họ có ý niệm về lịch sử cách khác. Chúng ta xem những biến cố dĩ vãng, hiện tại và tương lai theo thứ tự căn cứ theo mức đo lường thời gian của chúng ta: tính giờ, ngày và năm. Đối với người Dothái thì căn bản của dòng thời gian là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa quyết định thời gian: thời ăn chay hay thời mừng lễ, thời phán quyết hay thời cứu độ. Những biến cố trong lịch sử là những hành vi của Thiên Chúa, và thứ tự thời gian là hoàn toàn lệ thuộc vào ý muốn tự do của Thiên Chúa. Biến cố này xảy ra rồi đến biến cố kia, hoặc thời gian này đến thời gian kia, tất cả đếu do quyết định hay mệnh lệnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể thay đổi ý muốn và quyết định của ngài. Theo như kế hoạch đó thì không còn có những khoảng trống hay năm tháng trống rỗng giữa các biến cố. Giá trị và thứ tự của các biến cố là hoàn toàn do Thiên Chúa là Chúa của lịch sử quyết định.
Nếu không có ý niệm về Thiên Chúa như là Chủ tể của lịch sử, thì dân tộc Dothái không thể có ý niệm nào cả về lịch sử, cũng không có tâm mơ nào về một vận mệnh vĩ đại và huy hoàng. Ngược lại, nếu không có ý niệm này về thời gian, thì Thiên Chúa của người Dothái cũng không khác với thần của các dân tộc khác.
Nhập đề dài dòng trên đây là cần thiết để tránh gán gấp ý niệm về thời gian của Tây phương vào tư tưởng và lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Đức Giêsu công bố một thời hoàn toàn mới và sự cấp bách của «vương quốc» cuối cùng và dứt khoát của Thiên Chúa: «Thời giờ đã đến, vương quốc của Thiên Chúa đã hòng đến» (Mc 1:15).
Thời gian mới mà Đức Giêsu công bố không giống như thời gian mà Gioan công bố vài năm trước đó. Nếu nói theo thứ tự thời gian hay đo lường thì hai biến cố Giêsu và Gioan xem ra xảy ra cùng lúc- nghĩa là Gioan và Giêsu công bố sứ mệnh cũng trong cùng thời gian vài tháng hay vài năm. Tuy nhiên, Mátcô và Luca đặc biệt quan tâm rằng chúng ta không nên lẫn lộn thời gian của Gioan và Giêsu. Mát cô nói rõ hơn khi nói rằng Đức Giêsu đến Galilê và khỉ sự rao giảng «sau khi Gioan bị bắt». Luca xem phép rửa của Đức Giêsu như khởi hành sứ mạng hay thời gian của ngài. Vì thế ông ghi lại rằng Gioan rao giảng và bị bắt trước, rồi mới ghi lại việc Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu! (3:19-22).
Sự khác biệt về phẩm chất giữa thời gian của Gioan và thời gian của Đức Giêsu được trình bày rõ ràng trong dụ ngôn ngắn của Luca (Lc 7:31-35 = Mt 11:16-19)
Dân chúng của thế hệ này giống bầy trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau:
«Bọn tao thổi sao, tại sao tụi mày không múa;
Bọn tao hát đám ma, tại sao tụi mày không khóc».
Thực vậy, Gioan Tẩy giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo, «Ông ấy bị quỉ ám». Con Người đến, ăn uống, thì các ông bảo, «Xem kìa, tay ăn nhậu và bè bạn với những người thu thuế và người tội lỗi». Nhưng đức Khôn Ngoan đã được con cái mình biện hộ cho.”
Gioan có một cung điệu như ai ca; còn Đức Giêsu thì như vũ điệu ở tiệc cưới. Gioan sống chay tịnh còn Đức Giêsu thì sống tiệc tùng. Tuy thế, hai ngài không chống đối nhau. Hai ngài đều thể hiện sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, chỉ khác thời và khác hoàn cảnh. Thời của Gioan là thời than khóc, còn thời của Đức Giêsu là thời liên hoan.
Metanoia (hối cãi) trong thời của Gioan có nghĩa là chay tịnh và sám hối; metanoia trong thời của Đức Giêsu là như nhận lời mời đi dự tiệc (Lc 14:15-17), hoặc như tìm được kho tàng hay ngọc quí mà đành phải hy sinh tất cả mọi cái khác (Mt 13:44-46). Trong thời của Gioan ân xá được hiểu như là một biến cố tương lai nhờ ở phép rửa; trong thời của Đức Giêsu ân xá là một thực tế hiện tại và không còn cần phải chịu rửa dưới sông Giođan.
Cái mới lạ của thời gian của Đức Giêsu thật quá rõ ràng. Rượu mới không thể cất trong bầu cũ hay là trong những công thức đạo giáo cũ, và vải mới không thể vá vào áo cũ (Mt 2:21-22). Dẫu con người cao cả nhất cũng không còn giá trị gì (Lc 7:28). Dĩ vãng bị dứt khoát đoạn tuyệt. Nó đã qua rồi và Thiên Chúa đã tái lập thời gian mới.
Thời gian của Gioan và của Đức Giêsu khác biệt tự căn bản vì lẽ chúng được xác định bằng những biến cố tương lai khác nhau. Gioan báo trước sự phán xét của Thiên Chúa, còn Giêsu thì loan báo sự cứu độ của ngài. Gioan đang chờ một tai ương to lớn sẽ xảy đến, còn Giêsu thì mong ngóng một «vương quốc» vĩ đại được thành lập. Gioan là ngôn sứ của thảm họa, còn Giêsu là ngôn sứ của tin mừng.
Giống như các ngôn sứ khác, Đức Giêsu cũng đọc được dấu hiệu của thời gian. Những dấu hiệu của thời đại đã làm cho ngài tin rằng «vương quốc» sắp được thành lập. Đó là những dấu hiệu nào?
Đối với Đức Giêsu những dấu hiệu đó là sự thành công của các hoạt động của ngài giữa đám người nghèo và người bị đàn áp, là thực hành công việc giải phóng. «Nếu nhờ bàn tay của Thiên Chúa mà tôi trừ được ma quỷ, thì hãy biết rằng vương quốc của Thiên Chúa đã được thành lập cho các người» (Lc 11:20).
Quyền lực của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu và các môn đệ của ngài để giải phóng những ai bị đau khổ. Đối với Giêsu đó là ý muốn của Thiên Chúa. Quyền lực của đức tin đang làm những gì không thể làm được. Những đạo binh của Thiên Chúa đang tiến chiếm lãnh thổ của Satan. Ngày chiến thắng không xa lắm. «Vương quốc» của Thiên Chúa sắp được thành lập, sắp rồi và sẽ được thành lập trước họ. Thực vậy tương lai «vương quốc» của Thiên Chúa và công việc giải phóng của Đức Giêsu đang xảy ra cùng lúc. Quyền lực của «vương quốc» tương lai đang ảnh hưởng hoàn cảnh hiện tại.
Những người Pharisêu muốn Đức Giêsu đưa ra những dấu hiệu từ trời để minh chứng hoạt động và lời nói của ngài. Đức Giêsu từ chối. Ngược lại, ngài chỉ cho họ xem những dấu hiệu trên quả đất (Mt 16:1-4; Lc 12:54-56). Để trả lời những câu hỏi của Gioan Tẩy Giả, ngài nói: «Hãy về mà bảo Gioan về những gì các ông nghe và thấy: Người mù xem được, người què đi được, người phung khỏi được và người điếc nghe được ...» (Mt 11:4-5).
Sự thiện đang thắng sự ác. Thiên Chúa đang hồi tâm và không còn muốn phạt dân chúng nữa. Giờ đây Ngài muốn cứu họ. Hàm ý của hoạt động và lời nói của Đức Giêsu là Thiên Chúa đã thay lòng. Điều đó đọc được qua những dấu hiệu của thời gian.
Người ta thường nói rằng Đức Giêsu có một hình ảnh hoàn toàn mới mẻ về Thiên Chúa. Thiên Chúa của Đức Giêsu là hoàn toàn khác biệt với Thiên Chúa của Cựu Ước hoặc Thiên Chúa của những người Pharisêu - thực vậy Thiên Chúa của Đức Giêsu không giống tí nào Thiên Chúa mà hầu hết các người Kitô tôn thờ. Chúng ta không thể hiểu được hoạt động của Đức Giêsu và ý niệm về «vương quốc» nếu không có một hình ảnh hoàn toàn mới mẻ về Thiên Chúa.
Điều này rất đúng, nhưng đấy không phải là cách thức Đức Giêsu hiểu. Ngài không có một hình ảnh nào về Thiên Chúa. Nếu ngài có đi nữa, thì Thiên Chúa cũng đã thay đổi rồi. Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacob đang làm một việc hoàn toàn mới lạ và vô tiền khoán hậu. Ngài cảm thương những con chiên lạc của nhà Israel. Đức Giêsu nói lên điều đó trong dụ ngôn con chiên lạc, đồng bạc mất và nhất là người con trai hoang đàng (Lc 15:1-43). Bằng những dụ ngôn này, Đức Giêsu cố gắng bày tỏ cho những kẻ địch của ngài thấy dấu hiệu của thời gian, đó là Thiên Chúa vì cảm thương mà đã thay lòng và làm một cái gì mới lạ.
Điểm này thấy rõ ràng trong dụ ngôn người con trai hoang đàng. Phần đầu của câu chuyện (Lc 15:11-20) cho thấy tình trạng tội lỗi của người con và nó làm đau lòng cha nó thế nào. Kế đến, việc người con trở về nhà thật là một thay đổi bất ngờ. Điều mà người cha không làm là ông không bắt thằng con phải đền tội, hay đền bù thiệt thòi về tài chánh khi nó bỏ đi mà làm đầy tớ chăn heo, điều mà thính giả nghĩ là ông sẽ làm. Ông không phạt thằng con tí nào, điều này đi ngược lại lề lối công lý. Ông cũng không quở trách hay đòi thằng con phải xin lỗi. Ông cũng không nói tha thứ con ông. Ông chỉ biết vui mừng và bảo làm yến tiệc.
Tại sao? Bởi vì ông động lòng xót thương (Lc 15:20). Con ông trở về bình an là đủ rồi, ông không cần gì nữa, đó là lý do phải mở tiệc ăn mừng ngay.
Người con trai lớn phản ảnh tâm tình của khán giả, của các kinh sư và người Pharisêu (câu 2). Họ nghĩ rằng Thiên Chúa không bao giờ hành động như thế.
Nhưng Đức Giêsu biết chắc rằng nếu Thiên Chúa có hành động thế nào trong quá khứ, thì giờ đây người tội lỗi vẫn được yêu thương che chở; người ghét và nguyền rủa Thiên Chúa vẫn được ngài chúc phúc, «bởi vì ngài nhân hậu với cả kẻ vô ân và độc ác» (Lc 6:27,27,35). Chính vì thế mà người bệnh được chữa lành và người có tội được tha thứ. Chính Thiên Chúa giang tay tha thứ cho mọi người một cách dễ dàng vô điều kiện.
Thiên Chúa đang quan tâm đến nhân loại và những nhu cầu của họ. Thiên Chúa từ trời, từ nơi cao sang nhất đến ở lân cận với mọi người để họ có thể gọi ngài là abba, là «bố».
Chưa hề có ai dạy gọi Thiên Chúa như thế, ngoại trừ Đức Giêsu. Học giả Jeremias đã sưu tầm và quả quyết rằng Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa như thế. Abba không phải chỉ có nghĩa là cha, nhưng hàm ý nghĩa thân mật giữa các phần tử trong gia đình. Điều này trái ngược với thái độ của những người đến với Thiên Chúa mà run sợ lẩy bẩy, đặt ngài trong thế kính nhi viễn chi vì ngài là chủ tể và là đấng thánh!
Điều này cũng không có nghĩa là Đức Giêsu xem Thiên Chúa thuộc phái nam. Từ abba cũng nói lên Thiên Chúa nhân hậu như gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh (Lc13:34)
Hành động chữa bệnh và giải phóng dân chúng của Đức Giêsu cho thấy rằng Thiên Chúa xót thương người đau khổ, rằng ngài muốn sống liên đới với nhân loại và dùng uy quyền của ngài để phục vụ và bảo vệ họ.
Khi những người Pharisêu đòi dấu lạ từ trời, thì Đức Giêsu nhắc lại cho họ dấu lạ Giôna. Matthêu và Luca không hiểu đó là gì. Hai ông chỉ đón mò. Giôna nằm trong bụng cá mập ba ngày ba đêm, nên Matthêu nghĩ rằng Đức Giêsu muốn nói đến sự phục sinh của ngài như là dấu lạ từ trời (Mt 12:40). Còn Luca thì nghĩ rằng «Giôna là dấu lạ đối với dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng là dấu lạ đối với thế hệ ngày nay như vậy» (Lc 11:30). Nhưng câu chuyện lại liên quan đến việc Giôna nổi giận như những người Pharisêu (Giôna 4:1) khi «Thiên Chúa hồi tâm mà không giáng hoạ như ngài đã doạ» (Giôna 3:10). Giôna nói, «Quả tôi biết Ngài từ tâm và nhân hậu, không hay nổi giận, giàu lòng nhân nghĩa, sẵn lòng hối lại việc dữ» (Giôna 4:2). Nhưng Giôna, cũng như những người Pharisêu, không muốn Thiên Chúa từ tâm với người tội lỗi (4:1-3). «Ngươi nổi giận phải không», Thiên Chúa hỏi ông, «Ta không từ tâm được với dân thành Ninivê sao ... đối với những người không phân biệt được tay phải với tay trái?» (4:11)
Đó là dấu lạ cho những người Pharisêu. Thiên Chúa lại một lần nữa hồi tâm và cảm thương những người bình dân. Thiên Chúa đã thay đổi, và cũng vì thế mà thời gian cũng đã thay đổi. Đây là thời gian mới, đoạn tuyệt với dĩ vãng; một thời gian chỉ có thể hiểu được theo eschaton mới, đó là biến cố tương lai mới - «vương quốc» của người nghèo và người bị đàn áp.
Ai muốn tìm hiểu dấu hiệu của thời đại của chúng ta chắc hẵn cũng thấy những điểm tương tự rõ rệt. Chúng ta đang sống trong thời gian mới, một thời gian không khác lắm về phẩm đối với thời gian của Đức Giêsu. Sau khi đã duyệt qua thời gian của Gioan và trực diện với tai ương sắp tới mà nên hay không nên làm gì, có lẽ chúng ta có thể tiến xa hơn nữa, dưới sự hướng dẫn của Đức Giêsu, để đọc những dấu hiệu giải phóng qua những biến cố gần đây nhất và nhận ra eschaton mới hay biến cố tương lai như là ngày «vương quốc» được thành lập.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rõ thêm Đức Giêsu hiểu thế nào về việc việc thành lập vương quốc, liên quan đến những tai ương sắp xảy ra.


__________________________________

Chương trước (10) <=> Chương sau (12)



Comments

Popular posts from this blog

Chân Dung Đức Giêsu (Lm Jos. F. Girzone)

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Cốt tuỷ chung của các tôn giáo