11 Giôsê - Chương mười một
CHƯƠNG
MƯỜI MỘT
Căn nhà của Giôsê ở
không còn yên tĩnh nữa vì dân chúng đến thăm chàng thường xuyên hơn. Người ta
cũng đồn đại về đứa bé được chàng chữa bệnh. Hơn nữa, phái đoàn truyền hình đến
phố và ghé lại nhà Giôsê làm thiên hạ bàn tán suốt tháng. Đột nhiên chàng trở
thành nổi tiếng. Chàng không còn là con người đơn sơ sống trong căn nhà Văn Đơn
ở đàng kia đường nữa. Chàng là nhà điêu khắc Giôsê và là con người có viễn tượng.
Những tư tưởng của chàng về tôn giáo làm xáo trộn cả thị xã. Giấy đặt hàng đến
tới tấp, và căn nhà của chàng bận rộn suốt ngày với kẻ đến người đi.
Mặc dù chàng cố gắng
giảm bớt việc thương mại, nhưng chàng cũng để hết tâm trí vào hai món hàng lớn,
bởi vì chúng sẽ có ảnh hưởng đến nhiều người. Đó là những món hàng do hai giáo
sĩ đặt, một vị là linh mục Anh giáo tên là cha Giêrêmi Đabi và vị kia là chủ
chăn của cộng đồng người da đen tên là Rôlân. Cũng hơi lạ là hai vị cùng đặt
Giôsê làm tượng thánh Tông đồ Phêrô, người mà cộng đồng Kitô thời sơ khai đặc
biệt tôn kính. Giôsê nói với hai vị rằng mặc dù chàng không nhận hàng nữa, nhưng
chàng cũng sẽ làm hai pho tượng này vì chàng yêu mến Phêrô và cũng vì ảnh hưởng
của các pho tượng đối với dân chúng.
Chính cha Đabi là
người đến gặp chàng trước tiên. Lúc Giôsê đang cuốc đất ngoài vườn, thì một chiếc
xe hơi nhập cảng đen bóng nhoáng đậu lại trước nhà. Người tài xế bước ra mở cửa
cho khách bước xuống. Một người đàn ông to lớn ở ghế sau bước ra và đứng lên
xem thật đồ sộ. Đó là một giáo sĩ mặc đồ lớn màu xám và mang cổ trắng. Ông vênh
vang đi đến cổng xem quá nhỏ so với con người khổng lồ của ông. Giôsê dựng cái
cuốc lên bờ dậu và bước lại chào ông.
«Ông thợ chạm Giôsê có ở nhà không?», vị
linh mục hỏi với giọng anh văn Ốc-Phơ.
Giôsê đưa tay ra mỉm
cười nói, «Tôi là Giôsê». «Anh là Giôsê?», linh mục trả lời với giọng
khó chịu. «Nhưng anh chỉ là người làm vườn.
Chắc phải có một ông Giôsê khác, một nhà điêu khắc nổi tiếng?»
«Chỉ có tôi là Giôsê sống ở đây», Giôsê
trả lời. «Tôi cũng chạm gỗ. Nếu tôi là
người ông muốn gặp, thì tôi sẽ sẵn sàng giúp ông».
Khi nhìn cảnh vật
chung quanh có vẻ đơn sơ cũng như bộ đồ tầm thường Giôsê đang mặc, ông có vẻ thất
vọng.
«Vâng, nếu chỉ có anh ở đây, thì anh là người
tôi muốn gặp. Tôi tưởng sẽ gặp một người đặc biệt nhất trong thế gian có phong
độ cao», linh mục nói. «Tôi là cha
Giêrêmi Đabi, chủ chăn nhà thờ Thánh Phêrô thuộc giáo hội Êphicôpha», ông
tuyên bố như thế trong khi chìa tay cho Giôsê kính bái.
Giôsê không biết phải
bắt tay hay là hôn tay ông, chàng chỉ đặt tay chàng dưới tay ông, nắm qua loa rồi
rút tay về. Bàn tay ông nhạt nhẽo, không chút nghị lực. Giôsê cảm thấy lạnh
lùng rởn tóc gáy. «Mời cha vào phòng làm
việc của tôi», Giôsê lịch thiệp mời. Linh mục nhè nhẹ cúi người nhận lời và
theo Giôsê vào nhà. Người tài xế đứng trực ở cổng. Giôsê gọi anh và mời anh nữa.
Linh mục sửng sốt vì Giôsê đã phá lệ, nhưng người tài xế không thấy chủ cau mày
nên nhận lời Giôsê mà vào nhà. Giôsê đưa tay và tự giới thiệu với anh, vì linh
mục thấy hạ cấp không xứng đáng để ông giới thiệu. «Thưa ông, tôi tên là An. Rất hân hạnh gặp ông», anh nói hết sức nhu
mì. Rồi ba người cùng bước vào nhà.
Khi đi ngang qua các
đồ dùng trong nhà, cha Đabi cẩn thận sợ chạm vào đồ đạc, y như sợ bị lây bệnh. Cha
nhìn quanh quẩn căn phòng với vẻ khinh khỉnh, lòng ngờ vực khả năng của một người
sống nghèo nàn. Giôsê biết linh mục đang nghĩ gì, nhưng chàng vẫn lặng thinh. Họ
đi thông qua bếp đến phòng thợ. Căn phòng gọn gàng, nhưng không có nhiều đồ chạm
và cũng không có vẻ gì là phô trương. Vị linh mục nhìn khắp căn phòng và phê
bình, «Anh chỉ có bấy nhiêu à? Tôi tưởng
sẽ thấy một cái quán trang bị đẹp đẽ với đồ nghề tối tân và đầy mỹ phẩm».
«Người có tài thường chỉ cần đồ nghề đơn sơ
cũng đủ để làm được việc», Giôsê nói cách trung thực và không châm biếm.
«Tôi có mọi thứ tôi cần». Vị linh mục
nhìn tứ phía và xem xét mọi thứ ông cần xem, rồi bước trở lại bếp. «Tôi hy vọng không lầm khi đặt anh làm việc
này cho tôi», ông nói.
«Tôi sẽ làm hết lực. Cha muốn làm thứ gì?»
«Một tượng Phêrô Tông Đồ vĩ đại, một người mà
tôi thấy gần gũi và rất quí mến. Ông được chọn làm thủ lĩnh của các Tông đồ và
được Giêsu đặt làm nền tảng cho Giáo Hội. Tôi nghĩ rằng ông là một người rất
cân đối và cũng trang nghiêm giống như tôi, nếu tôi được phép tự cao một tí».
«Vâng, tôi thấy cha có hơi giống Phêrô», Giôsê
mỉm cười nói với linh mục, chàng cố nghiêm trang để khỏi bật cười.
Giôsê không ghét
linh mục, nhưng ông cầu kỳ làm chàng khó chịu. Dẫu có thông cảm với ông, chàng
cũng cảm thấy khó nói chuyện với cái lối độc thoại của ông. Lời phê bình tiếp
theo của linh mục là một lời mặc cả cuối cùng: «Nếu anh cảm thấy không làm được thì xin vui lòng cho tôi biết ngay bây
giờ để tôi tìm người khác».
Giôsê biết khả năng
của mình nên cam đoan với linh mục là chàng sẽ làm cho ông. Nếu một tuần nữa
linh mục trở lại thì công việc sẽ xong.
Vì không còn gì để nói
nữa, cha Đabi quay người đi ra cửa. «Đi, An»,
ông nói với tài xế. Giôsê tiễn họ ra cửa và theo lối ra cổng. Người tài xế cố
nói một câu bông đùa cuối cùng với Giôsê, nhưng chủ của anh không làm như vậy, thành
thử anh và Giôsê chỉ trao đổi cái liếc mắt. Tuy nhiên, vị giáo sĩ cũng gượng gạo
nói được một lời «từ giã» trước khi
bước ra xe.
Khi xe chạy đi rồi, Giôsê
lấy cái cuốc dựng ở hàng rào và đi vào lại sân làm việc cho xong. Chàng nghĩ tới
Phêrô một chập lâu thỉnh thoảng chàng mỉm cười khi những kỷ niệm xưa sống lại
trong trí. Đúng, có những cái giống nhau giữa Phêrô và vị linh mục. Cả hai đều
tự phụ và chỉ nghĩ đến mình. Cả hai đều to lớn. Nhưng ngoài ra không còn gì giống
nhau giữa họ. Phêrô là một người vĩ đại khác với vị linh mục. Phêrô có con tim lớn
và một trí óc lớn. Đabi thì lạnh lùng và vô tình. Khi còn trẻ Phêrô có thể cũng
muốn có một tài xế, nhưng ông cũng có thể không ngại đội mũ tài xế và làm tài xế
cho người tài xế.
Trong khi suy nghĩ
như thế, Giôsê thắc mắc không biết phải phác hoạ cái tượng ra sao. Chàng gần
như bị cám dỗ muốn dùng vị linh mục làm mẫu, nhưng rồi chàng bỏ ngay cái ý nghĩ
ấy đi vì nó ác ý. Chắc Phêrô cũng không hài lòng việc đó. Chàng thắc mắc về cái
sứ điệp mà pho tượng sẽ đem đến. Mỗi nghệ phẩm phải mang lại một sứ điệp. Giôsê
suy nghĩ hồi lâu, và sau khi loại bỏ hàng tá ý nghĩ, cuối cùng chàng quyết định
cách thức chạm tượng vị Tông đồ vĩ đại là Phêrô.
Lúc gần bốn giờ
Giôsê quyết định đi bộ ra đường. Ngày hôm ấy trời ấm và oi bức, chàng bận lắm. Chàng
muốn đi dạo mát. Mới đây có nhiều chuyện đã xảy ra, chàng phải xem xét mọi việc
đi đến đâu.
Chàng đi ngang qua
nhà Lăng-Phơ, nhưng cứ tiếp tục đi như không muốn làm gián đoạn suy tư. Chàng
chỉ dừng lại để xem các con chim bay nhảy trên cây, hoặc để nhìn qua đồng cỏ và
xem những cọng lúa mì múa theo gió. Gió nhẹ thổi qua cánh đồng lúa vàng như các
đoàn cừu chạy qua đồng cỏ. Chàng nghĩ đến dân chúng không chủ chăn, rồi chàng
tiếp tục đi.
Trên đường về, một
nhóm người đến gặp chàng. Một người đàn bà trong bọn họ đã nhìn qua cửa sổ thấy
chàng đang đi. Giống như những người Pharisêu ngày xưa, bà đợi chàng từ lâu và
đây là dịp cho bà. Bà gọi bạn bè đến gặp nhau ở góc đường mà họ biết Giôsê sẽ
đi qua. Họ không có vẻ gì dữ tợn lắm; xem như đấy chỉ là một cuộc gặp gỡ thông
thường của bạn bè. Tuy nhiên nhóm này có một mục đích. Họ vào tuổi trung tuần, phần
lớn là Công giáo, rất bảo thủ và đang đau khổ vì những thay đổi lớn đang xảy ra
cũng như biết chàng đi lễ ở nhiều nhà thờ khác nhau, Tin Lành cũng như Công
Giáo, thành thử họ gần như ghê tởm chàng. Chàng nói Giêsu đến để giải phóng con
người, nhưng các tổ chức tôn giáo đã tước mất sự tự do mà Thiên Chúa muốn họ được
hưởng. Chàng đã gây ảnh hưởng không tốt, và việc chàng không đi lễ một nhà thờ
nào nhất định chứng tỏ chàng thiếu đức tin.
Khi Giôsê đi xuống
đường, họ tiến lại và hầu như là bao quanh chàng, như thể sợ chàng chạy thoát. «Thưa ông, chúng tôi muốn nói chuyện với ông»,
một người đàn bà cở người trung bình nói. Bà mặc quần gin xanh và cái áo cánh
xanh lợt.
«Mời quí vị đến nhà tôi cho thoải mái hơn»,
Giôsê nói cách tỉnh táo.
«Không», người đàn bà nhấn mạnh. «Chúng tôi muốn nói chuyện với ông tại đây. Chúng
tôi rất quan tâm về những gì nghe nói về ông. Một số người trong chúng tôi cũng
đã nghe ông nói chuyện mà không thích lắm».
«Tôi không bao giờ nghĩ là người ta phải luôn
luôn đồng ý với tôi. Họ được tự do suy nghĩ», Giôsê lịch sự đáp.
«Ông ở phố này chỉ trong một thời gian ngắn
mà đã làm phiền nhiều người trong chúng tôi vì những tư tưởng và hành động dị
thường của ông», một bà khác lên tiếng. «Chúng tôi là những người cổ lỗ sĩ xuất thân từ những trường cổ và chúng
tôi bị xúc phạm do những gì ông nói về đạo của chúng tôi, ông nói rằng đạo tước
mất sự tự do của con người. Có lần ông nói rằng những ai bám víu vào những tư tưởng
cũ thì không trưởng thành được, và ông nói rằng những người Công giáo chỉ bám
vào những qui tắc bên ngoài hơn là yêu mến Thiên Chúa và láng giềng».
Mọi người yên lặng
chờ chàng trả lời câu tấn công của người đàn bà. Giôsê thân thiện nhìn bà và những
người kia. «Đúng», chàng nói, «hầu hết những gì bà nói là đúng, nhưng không
hẳn theo cách thức bà nói. Tôn giáo thời Giêsu không khác gì thời nay. Các vị
lãnh đạo tôn giáo có nhiều quyền hành để sửa phạt tín đồ, nếu họ phạm những qui
tắc đạo giáo. Nhưng các ông cũng có thể nghĩ rằng mình có sứ mạng từ trời để kiểm
soát đời sống của dân chúng, cả đến tư tưởng của họ. Điều đó không được lành mạnh
lắm. Thiên Chúa không bao giờ muốn các tổ chức nhân loại có quyền kiểm soát đời
sống của dân chúng. Thiên Chúa dựng nên con người được tự do. Họ là con cái của
Ngài».
«Phận sự của các tông đồ cũng như những người
kế vị các ông là dẫn dắt đoàn chiên cách êm ái và dạy họ những gì Giêsu đã dạy.
Các ông không được ép buộc dân chúng phải tin, hoặc dọa dẫm họ phải tùng phục. Điều
đó tước mất quyền tự do của con người. Các ông cũng không được đòi hỏi ở dân
chúng nhiều hơn là Thiên Chúa muốn. Tôn giáo chỉ tốt đẹp khi một cá nhân sống đời
bình thường nhưng rất mực yêu mến Thiên Chúa. Những thói quen được tạo nên gọi
là tôn giáo thì không làm cho người ta nên đạo đức hay đẹp lòng Thiên Chúa. Đó
là loại tôn giáo của những người Pharisêu mà Giêsu đã cực lực tẩy chay».
Một bà nhận xét, «Đúng, tôi đồng ý. Tôi luôn luôn nghĩ rằng
chúng ta phải được tự do để quyết định lấy cho mình».
Tuy nhiên một người
khác xen vào nói rằng Giáo hội thay mặt Giêsu, và điều gì Giáo hội dạy thì con
người phải vâng nghe.
Giôsê công nhận rằng
Giáo hội kế vị Maisen và Phêrô như Giêsu đã muốn. Nhưng Giêsu cũng nói rằng những
ai theo Ngài thì không nên bắt chước thói quen của những người Pharisêu, vì họ
chỉ thích bày vẽ những lối hành đạo để dân chúng tuân giữ. Họ đã làm cho tôn
giáo trở thành việc tuân giữ những truyền thống nhân loại. Khi các vị lãnh đạo
tôn giáo làm thế thì họ làm cho dân chúng xa cách Thiên Chúa. Dân chúng oán hận
vì bị ép buộc phải tuân giữ những luật lệ do con người đặt ra mà các ông nói là
cần để được cứu rỗi. Đó là điều Giêsu muốn nói khi Ngài bảo các tông đồ đừng giống
như men Pharisêu, hoặc đừng giống như những nhà cầm quyền ngoại giáo chỉ thích
cai trị thuộc hạ của mình.
«Ông cho chúng tôi một thí dụ», người ấy
hỏi tiếp.
«Được lắm», Giôsê đồng ý. «Giáo hội buộc giáo dân phải cưới xin trước mặt
một linh mục, nếu không thì lễ cưới sẽ không thành. Cưới xin trước mặt một linh
mục thì không phải là sai, nếu đó là điều hai người muốn. Nhưng bắt buộc họ phải
làm như thế nếu không thì hôn nhân sẽ trở thành vô hiệu và vô luân, thì đấy là
một việc khác. Nếu một đôi bạn không cưới nhau trước mặt một linh mục, thì các
người bảo rằng hôn nhân đấy không thành và đôi vợ chồng sống trong tội lỗi. Họ
có thể lấy nhau trong nhiều năm và sinh nhiều con cái, nhưng nếu một trong hai
người, trong một lúc nào đó, bỏ nhà cửa và con cái ra đi, và đem một tình nhân
khác đến với linh mục, thì họ lại có thể cưới nhau và được linh mục làm phép, bởi
vì hôn nhân đầu tiên là vô hiệu quả!
«Hoặc lấy thí dụ một người đàn ông không giữ
đạo. Anh ta làm đám cưới trước một quan toà. Nhưng vì anh ta là người có đạo, thì
hôn nhân của anh bị xem là vô hiệu quả. Cũng người đàn ông ấy lấy năm bà nữa và
có con với mỗi bà, rồi lại bỏ hết. Cuối cùng anh ta quyết định làm đám cưới với
một bà trong nhà thờ. Điều này rất dễ dàng xếp đặt, vì mấy đám cưới trước bị
xem như đã không xảy ra. Bỏ cả bầy con cũng chẳng sao! Đám cưới sau cùng được
linh mục làm phép rất trọng thể. Quí vị có nghĩ rằng cái loại luật pháp ấy sẽ
làm đẹp lòng Thiên Chúa không? Đó là cách thức những người Pharisêu giảng dạy. Luật
pháp và lễ nghi được lập nên, nhưng lại không nghĩ phải làm đẹp lòng Thiên Chúa
cách nào!».
«Hoặc lấy thí dụ việc tha tội. Giêsu muốn đó
là là một ân huệ đem lại bình an cho những tâm hồn bị dày xéo. Các vị lãnh đạo
tôn giáo lại biến ân huệ này thành một ác mộng làm khổ nảo biết bao người thành
tâm, khiến họ không thể cởi mở tâm hồn với ai. Có thể vì thế mà họ phải hư mất.
Chính sự thiếu thông cảm về phía các chức trách của Giáo hội đã cất đi ơn sủng
của Thiên Chúa, và biến nó thành khí cụ gây đau khổ cho dân chúng. Giêsu muốn
ân xá được ban cách êm ái và từ bi, chứ không phải nhục mạ do một linh mục ít
kiên nhẫn, hoặc với cách thức làm trẻ con phải té đái vì sợ sệt. Điều mà Giêsu
muốn cho dễ dãi và tự do, thì họ lại đặt thành nghi thức cứng nhắc với thời
khoá ấn định, như thể Thánh Linh hoạt động theo thời khoá biểu do con người đặt
ra».
Nhóm người ấy sửng sốt
với những gì họ nghe. Một vài người chăm chú nghe và có vẻ đồng ý. Họ đã có
kinh nghiệm đó, và biết Giôsê đã nói lên sự thật, nhưng họ không dám công kích
các linh mục của Giáo Hội vì sợ tội. Những người khác thì giận muốn lộn gan. Chưa
bao giờ họ nghe ai công kích Giáo Hội của họ như người này. Họ đã được dạy và
tin vững vàng rằng Giáo Hội là tiếng nói không sai lầm của Thiên Chúa «Như thế thì những gì chúng tôi nghe nói về
ông là đúng sự thật», một người đàn ông vặn lại; ông ta người vạm vỡ, mang
mắt kiếng và vào tuổi trung tuần bốn mươi. «Ông
ghét Giáo Hội và công kích lời giảng dạy và luật phép của Giáo Hội».
«Không đúng sự thật», Giôsê phản pháo, mắt
chàng nẩy lửa.
«Tôi yêu mến Giáo Hội, bởi vì Giêsu yêu mến
Giáo Hội. Giáo Hội là một ân huệ Ngài
ban cho nhân loại, tuy nhiên Giáo Hội cũng là trần thế, nên cần phải tu chỉnh
và khuyến giục để sống trung thành với tinh thần của Giêsu. Người Kitô trưởng
thành không nên sợ phải nói lên ý nghĩ của mình, và vì trung thành mà họ đòi
Giáo Hội phải tuân theo tinh thần của Giêsu. Họ không phải là tôi tớ trong một
gia đình. Chính họ là gia đình, không kém gì những người lãnh đạo. Giêsu muốn
những chủ chăn phải làm tôi tớ chứ không phải làm người thống trị, và ngài muốn
Kitô hữu không nên sợ sệt khi phải lên tiếng. Tôi nói những gì tôi đã nói, bởi
vì tôi muốn Giáo Hội trở nên như Giêsu muốn, đó là một chốn bình an, là một hải
đăng chỉ lối, chứ không phải là một tù ngục giam hãm tinh thần, hoặc một lưỡi
gươm gây nên thương tích».
Điều Giôsê nói nghe
không ổn thoả lắm. Họ chưa bao giờ nghe các linh mục bị công kích như thế. Hơn
nữa nhân danh Giêsu mà đả kích là một hành động ma quỉ xấu xa. Chàng là người xấu
đội lốt đạo đức. Hoặc là chàng lầm đường, hoặc là chàng tinh quái. Một người
đàn bà muốn tát vào mặt chàng, vì chàng dám phạm thượng. Một người khác cảm thấy
thương hại cho tình trạng bất ổn của tâm hồn chàng, và hứa sẽ cầu nguyện cho
chàng. Một trong những người đàn ông bảo chàng là người rối đạo, và ông sẽ tận
lực tiêu diệt ảnh hưởng của chàng trong cộng đồng. Câu hỏi cuối cùng họ đặt cho
chàng là, «Tại sao ông cứ đi lễ nhiều nhà
thờ khác nhau? Tại sao ông không quyết định đi nhà thờ nào thì đi một cái?»
Mặc dù câu hỏi không có ý ngay lành, Giôsê cũng không lấy làm khó chịu. Chàng
cười vui vẻ, vì biết rằng họ không bao giờ hiểu nổi. Chàng trả lời cách đơn sơ,
«Tôi nghĩ rằng Giêsu yêu mến dân chúng chứ
không phải các tổ chức, và dân chúng không nhất thiết là Công giáo, Mêtôđít hay
Prêbytêri. Nơi nào mà dân chúng thành tâm tôn thờ Thiên Chúa, thì Ngài ngự giữa
họ, và tôi cảm thấy tự nhiên với họ, mặc cho họ là ai. Quí vị có nghĩ là Giêsu
sẽ làm khác đi chăng?».
Họ không sao chịu được
chàng. Họ không thể hiểu được chàng. Chàng nói ngược lại những gì họ được dạy từ
thuở bé. Họ cũng phải công nhận có một cái gì đẹp đẽ trong cái tự do dễ dãi của
chàng, tuy nhiên nó rất nguy hiểm vì dễ bị cám dỗ nghe theo. Nó là mối đe doạ
cho đức tin và có thể làm cho những ai yếu đức tin phải sa ngã. Tâm tánh của
chàng lại dễ lôi kéo giới trẻ, nên họ phải cấm con cái lại gần chàng, như thể
chàng còn nguy hiểm hơn dịch hạch. Nhưng con cái của họ lại thích Giôsê. Họ phải
cấm chúng đến gần chàng vì chàng có thể làm chúng mất đức tin. Họ không biết rằng
chàng không bao giờ nói những chuyện như thế với trẻ con, vì chúng không thể hiểu
được. Chúng được tự do và tốt đẹp, và chàng chỉ ước mong người lớn giống như
chúng hơn.
Giôsê lắc đầu nhìn họ
bỏ đi và bàn tán om sòm ra đến đường. Khi nhìn theo họ, chàng thấy lại hình ảnh
các chiếc áo choàng của những người Pharisêu và luật sĩ. Tâm tư của họ cũng như
vậy, chỉ có môi trường là khác - thực ra thì họ có thiện chí, nhưng hẹp hòi và
kém mở mang. Họ phải đạp đổ những gì họ không hiểu được!
Chiều hôm ấy nhóm
người đó đến nhà xứ và họp với vị chủ chăn. Cha Phát gặp họ ở cửa và đưa họ vào
một phòng khách rộng rãi để đợi vị chủ chăn. Vị phụ tá trẻ tuổi không phải là
người họ ưa thích. Cha rất giống Giôsê trong tư tưởng, và nhờ vị chủ chăn cứng
rắn mới giữ cho cha được ngay thẳng! Cha Phát biết họ không chịu được cha, và họ
cũng nghĩ như thế đối với cha. Cha có linh cảm về việc họ đến gặp vị chủ chăn
và cha tò mò về mục đích của buổi họp này. Cha biết có gì liên can đến Giôsê, nhưng
không biết chắc chắn dụng ý của họ.
Khi vị chủ chăn đến,
ông bước vào phòng đóng cửa lại. Và sau đó không lâu lắm bên ngoài cũng nghe được
chuyện gì, vì họ nói lớn tiếng. Không phải cha Phát cố ý rình nghe. Đó là điều
tối kỵ đối với cha. Tuy nhiên cha không thể không nghe trọn câu chuyện, vì văn
phòng của cha ở kế bên. Sự ngờ vực của vị chủ chăn đối với Giôsê như khuyến
khích nhóm người này nói lên điều họ muốn. Cha Phát rất quan tâm. Cha biết
không có gì tốt đẹp sẽ xẩy ra. Cha cảm thấy lòng tan nát. Cha thích Giôsê nhưng
không biết làm sao bảo vệ chàng chống lại kết quả của buổi họp này. Cha ước chi
vị chủ chăn mời cha dự cuộc họp này để cha có thể lên tiếng bênh vực cho Giôsê.
Cha biết Giôsê không
làm gì nguy hại cho một đức tin chân chính. Chàng chỉ là một đe doạ đối với một
đức tin bị hướng dẫn sai lạc. Chàng thật sự yêu mến tôn giáo và chàng đạo đức
cách chân chính, mặc dù chàng không có cái phô trương của con người quá đạo đức.
Cha Phát cũng biết rằng sự hiểu biết của Giôsê về tôn giáo không có gì là phạm
thượng, trái lại chàng còn hiểu cái tâm cơ của tôn giáo, đó là sự trưởng thành
lành mạnh của con người trong tình yêu Thiên Chúa và nhân loại, cũng như tất cả
mọi thụ tạo của Thiên Chúa. Đạo như ngày nay thì không được lành mạnh mấy. Nhưng
làm sao cha nói với vị chủ chăn được điều đó, vì chính ông cũng không được lành
mạnh.
Tối hôm ấy Giôsê ăn
cơm ngoài sân và, như thường lệ chàng tiếp đợt khách thứ tư. Bây giờ họ thân
thiện hơn vì họ hiểu biết chàng hơn. Giôsê như không còn tự chủ. Có một cái gì
đè nặng lên tâm trí chàng, và chàng có vẻ tuyệt vọng. Các con chim hình như cảm
thấy chàng chán nản, chúng nhảy lên người chàng và mổ vào quần áo của chàng. Tuy
nhiên tâm trí của chàng lại để vào những việc khác. Chàng thất vọng vì dân
chúng. Họ thấy rất khó khăn để khoan dung, hoặc mở tâm trí để có một cái nhìn
khác về mọi việc. Họ bám víu vào những gì của tuổi trẻ mà không bao giờ dám thắc
mắc. Giữ lấy đức tin là một việc, nhưng bám lấy những truyền thống không ăn nhập
gì với điều Giêsu dạy là một việc khác. Nó cho thấy một đức tin bị lạc lối, cũng
như một tình trạng bất ổn và sợ sệt làm tê bại sự lớn lên trong đức tin.
Khi Giôsê ăn tối
xong và đi vào nhà thì có tiếng gõ cửa. Chàng đi ra mở cửa và ngạc nhiên thấy Massia
đứng ở đó. Nàng xem rất quyến rũ trong bộ đồ xanh, mỏng và nhẹ làm nổi hẳn
khuôn mặt mịn màng của nàng. Khí sắc Giôsê thay đổi ngay khi chàng thấy nàng. Mặt
chàng thoải mái hơn với nụ cười tươi tắn. Hai người trao nhau cái hôn rồi đi
vào nhà.
Khi Giôsê đóng cửa, chàng
thấy một nhóm người đang đi ngoài đường. Đó là phái đoàn mới ở nhà xứ về. Họ thấy
Giôsê và Massia hôn nhau rồi cùng đi vào căn nhà tối. Giôsê cũng đoán được họ sẽ
nghĩ gì. Giôsê rất thích vì nàng đến. Chàng mến Massia và biết nàng cũng mến
chàng. Chàng cần có bạn để tâm sự. Ngày hôm ấy không mấy may mắn, và Giôsê cũng
biết được mọi việc sẽ đi về đâu. Tương lai có điềm xấu. Nàng đến như làm dịu bớt
cái căng thẳng trong ngày và giúp đánh tan, ít nhất là tạm thời, cái u ám đè nặng
trên người chàng.
Về vấn đề nghệ thuật,
Giôsê và Massia có nhiều quan điểm giống nhau. Nàng say mê nghệ thuật, văn hoá
và triết lý, và có nhiều vấn đề cần hỏi Giôsê. Có thể nàng không hoàn toàn biết
tại sao lại thích chàng, và mặc dù lúc đầu nàng có thể bị chàng thu hút vì lý
do cao thượng, nhưng mỗi ngày nàng lại khắng khít với chàng hơn. Trong ngày
nàng thường nhớ đến chàng, và tự hỏi chàng nghĩ thế nào về ý tưởng này hoặc ý
tưởng nọ hay chương trình kia, và ước mong được cùng chàng thảo luận. Bởi vì
nàng không thể gọi điện thoại cho chàng, nên cách duy nhất để liên lạc với
chàng là đến thăm chàng. Khi thấy chàng mừng rỡ, nàng rất hài lòng vì mình đã đến.
«Giôsê, tôi hy vọng anh không phiền hà việc
tôi đường đột đến thăm anh thế này», nàng miễn cưỡng cáo lỗi.
«Không có chi. Thực ra ngày hôm nay cái gì
cũng sai và tôi cảm thấy hơi thất vọng. Cô đến, tôi mừng lắm».
«Tôi biết anh là người có nhiều nghị lực»,
Massia nói, «và anh có những ý nghĩ sâu
xa về nhiều việc. Tôi ghi nhớ những ý kiến của anh và quan điểm độc đáo mà anh
diễn tả. Công việc của tôi đòi hỏi lắm và người ta cũng hỏi ý kiến của tôi về
nhiều đề tài. Đôi khi tôi cảm thấy không thông suốt lắm, và mong ước được cùng
anh thảo luận một ít việc. Tôi biết anh có thể đưa ra nhiều đề nghị hay. Chẳng
hạn ngày hôm trước trong buổi họp Ủy ban Văn hoá và Nghệ thuật của Ủy hội Quốc
Tế, một vấn nạn được nêu lên về phương diện chính trị của nghệ thuật và văn hoá.
Các đại biểu Nga nghĩ rằng vì người Mỹ có quá nhiều ảnh hưởng đối với những dân
tộc khác, nên cũng ảnh hưởng sự thiên tư chính trị. Họ mỉa mai nói rằng nghệ
thuật Mỹ đang suy đồi và đem tệ đoan đến cho nhân loại.»
«Tôi nghĩ rằng tổ chức Liên Hiệp Quốc là diễn
đàn để mỗi quốc gia phát biểu ý kiến của mình. Nếu quốc gia nào cảm thấy thích
nghệ thuật Mỹ, hoặc Nga, thì đó là điều tốt vì nó là mối giây liên kết hai dân
tộc. Nếu một quốc gia không thích điều đó, thì chỉ vì họ cảm thấy bị đe doạ vì
quốc gia kia ái mộ quốc gia đối lập của mình. Nhưng nếu không có tự do phát biểu
ở Liên Hiệp Quốc, thì làm sao nó tồn tại được? Một vài quốc gia thuộc Đệ Tam Thế
Giới tấn công tôi lung tung, làm tôi cảm thấy thất vọng cho buổi họp. Buổi họp
đó rất quan trọng, bởi vì chúng tôi phải quyết định những chương trình nào
chúng tôi sẽ đỡ đầu và tài trợ trong năm tới. Không thể đồng ý về một việc rất
căn bản như vậy làm tôi thất vọng lắm».
«Tôi cũng biết đó là điều mới lạ đối với anh
và có thể ở ngoài lãnh vực của anh, nhưng tôi nghĩ anh có thể đưa ra một vài đề
nghị mà tôi có thể mang theo buổi họp kỳ tới».
Giôsê nhìn Massia, đúng
hơn là chàng nhìn thẳng vào tâm hồn nàng. Tư tưởng của chàng xem như ở đâu đâu.
Nàng không biết chàng có để ý nghe điều nàng cố gắng tỉ mỉ giải thích không. Rồi,
sau cái im lặng xem như bất tận, chàng nói với nàng: «Massia,
cô ngây thơ dấn thân vào cuộc chiến kiểm soát tư tưởng nhân loại. Điều mà cô đề
nghị như là một phương thế
liên kết mọi người, thì lại bị xem là lối trá hình của một chương trình tối tăm
và nham hiểm để kiểm soát tư tưởng của những dân tộc đơn sơ. Cô đang đương đầu
với những lực lượng đang muốn kềm chế tư tưởng bằng cách kềm chế nghệ thuật và
văn hoá. Bởi vì các cơ quan này bị ảnh hưởng chính trị, nên cô không thể đề cập
đến các vấn đề đó với cái nhìn thuần túy nghệ thuật hay văn hoá, nhưng cô phải
khôn lanh như con chồn. Tôi có ý kiến là cô nên đề nghị phát triển nghệ thuật của
một quốc gia trung lập thuộc Đệ Tam Thế Giới, hơn là cổ động cho các nghệ sĩ của
cô. Nếu cô làm thế, các địch thủ của cô không dám chống lại cô vì sợ làm mất
lòng các quốc gia đang phát triển. Một khi đề nghị của cô được chấp thuận, cô
có thêm được đồng minh và có thể hoạch định những mục đích lâu dài với các người
bạn mới. Điều đó có thể làm được một cách tốt đẹp và kín đáo mà không ai biết
cô nghĩ gì. Trong những trường hợp như thế này, cô cần có những mục đích ngắn hạn
và dài hạn để cho các địch thủ của cô không biết đâu mà dò. Cô sẽ có thể thực
hiện được nhiều điều theo kế hoạch này hơn là trực tiếp đương đầu».
Khi Giôsê nói xong, Massia tỏ vẻ rất thán phục. «Giôsê, anh không đơn sơ như tôi tưởng. Làm
sao có thể “đơn sơ như chim câu và khôn lanh như con chồn”? Nhưng tôi nghĩ đó là phương cách độc nhất để
đánh lừa địch thủ. Cũng nên thử xem. Còn một vấn đề nữa tôi cần hỏi anh. Nó có
tính cách riêng tư hơn, và tôi hy vọng anh không phiền hà nếu tôi hỏi.»
Giôsê gật đầu cho biết chàng không phiền hà gì.
«Anh có biết rằng
anh có rất nhiều khả năng, không những chỉ là một nghệ sĩ, nhưng là một nhà tư
tưởng và là một triết gia? Nếu xử dụng đúng chỗ, anh có thể gây ảnh hưởng lớn
trong xã hội. Tôi đã nói về anh với nhiều bạn hữu, và họ nóng lòng muốn gặp anh».
«Massia, tôi rất
hãnh diện được cô nghĩ tốt về tôi. Tôi quan tâm về sự phát triển lành mạnh của
xã hội, tuy nhiên mỗi người chỉ giới hạn trong vai trò mà mình cảm thấy thoải
mái. Tôi không nghĩ tôi là người phải ảnh hưởng đến những kẻ xây dựng xã hội. Tôi
chỉ là bạn thân của đám người bình dân, tôi cảm thấy thoải mái với họ».
«Nhưng, Giôsê, anh
nghĩ thế vì anh khiêm tốn, và chưa bao giờ có ai thúc đẩy anh hoạt động hết khả
năng của anh. Tôi cảm thấy rất gần gũi với anh, và tôi thấy chúng ta suy nghĩ
và cảm nghĩ rất giống nhau. Tôi thực sự nghĩ rằng chúng ta có thể hợp tác với
nhau mà làm được việc lớn. Tôi biết tôi quá hăng say và tự phụ mà xen vào đời sống
của anh như thế này, đó là vì tôi quá quan tâm đến những vấn đề của xã hội. Chúng
ta cần có những người thấy xa và hiểu rộng như anh để tạo nên ảnh hưởng lớn. Tôi
biết rằng ý kiến này rất mới mẻ đối với anh, và có lẽ anh không cảm thấy thoải
mái ngay lúc này, nhưng tôi mong muốn anh suy nghĩ kỹ và có lẽ chúng ta sẽ thảo
luận lại với nhau».
«Tôi hứa sẽ nghĩ lại
về việc đó, và thành thực mà nói, ý kiến đó nghe rất hấp dẫn».
Massia đã hoàn thành điều nàng dự định khi đến thăm GiôSê,
mặc dù nàng chưa thành công. Nàng tự nhiên cảm thấy thoải mái. «Tôi thích căn nhà nhỏ của anh», nàng nói,
mắt nhìn một loạt cái phòng khách. «Lối sắp
đặt rất hạp với người độc thân, mặc dù có vẻ khắc khổ hơn con người của anh»,
nàng nói tiếp trong khi cố gắng xem Giôsê có mở lòng tiết lộ tí gì về chàng
chăng.
Giôsê chỉ mỉm cười vì nàng có lối hài huớc. Chàng thích
cái nét đó ở người nàng, vì thế chàng họa theo và hài hước đáp lại, «Tôi chỉ cần có bấy nhiêu, và mặc dù tôi cũng
thích nhà đẹp và tiện nghi hơn, nhưng thế này cũng rất thực dụng rồi. Vả lại
tôi không ở nhà nhiều, nên tôi không nghĩ đến việc trang trí nhà cửa. Tôi mộng
xa hơn là bốn bức tường này».
«Anh cũng mơ mộng à?»,
Massia nói, nàng ngạc nhiên về điều tiết lộ này.
«Dĩ nhiên, ai lại
không? Tất cả chúng ta đều muốn nhìn mọi sự khác hơn là chúng hiện đang có. Và
vì là con người, tôi cũng không khác hơn ai», chàng nói.
«Anh mơ mộng thứ gì?»
«Về những người tôi
gặp gỡ, về những gì tôi muốn hoàn thành», chàng trả lời.
«Chắc là tôi không
bao giờ có trong giấc mộng của anh», Massia nũng nịu hỏi.
Giôsê mỉm cười cách âu yếm. «Có, tôi có nghĩ đến cô, và tôi thán phục nhiều điều ở cô. Thiên Chúa
ban cho cô nhiều tài năng, và cô được Ngài yêu mến lắm, vì cô để Ngài dùng cô cộng
tác trong công việc mà Ngài đã hoạch định cho đời cô. Cô là một người rất hiếm
có, và tôi hân hạnh chúng ta đã gặp nhau».
Nàng đang mong chàng
nói như thế. Và khi nghe chàng nói, mặt nàng sáng rỡ lên. «Tôi cũng nghĩ như thế đối với anh», nàng trả lời. «Tôi hy vọng chúng ta sẽ hiểu nhau nhiều hơn».
Massia nhìn đồng hồ
nơi tay. Muộn rồi. Nàng không muốn làm chàng chán ngay ở chuyến viếng thăm đầu
tiên. Khi đứng lên ra về, nàng nói với Giôsê, «Tôi hy vọng anh thích viếng nguyện đường của chúng tôi hôm thứ sáu. Dân
chúng cảm thấy gần gũi anh và mong gặp lại anh. Họ rất thán phục khi tiếp chuyện
với anh trong buổi gặp gỡ xã giao. Tuần sau anh đến nữa không?»
«Có, tôi sẽ đến. Tôi cũng thích và dân chúng
cũng thích. Tôi cảm thấy tự nhiên, cám ơn lắm».
Massia đi ra cửa. Giôsê
bước theo và nói với nàng, «Cám ơn cô đã
đến thăm. Tôi cảm thấy phấn khởi, và tôi sẽ suy nghĩ về lời đề nghị của cô».
Khi họ ra đến hiên
nhà, Massia quay lại với Giôsê và nhè nhẹ nghiêng đầu, như nhắc chàng hôn nàng
nếu chàng muốn. Chàng đặt hai tay lên vai nàng và âu yếm hôn nàng ở má. Nàng
đáp lại, ôm lấy chàng và âu yếm hôn chàng. Rồi hai người cùng theo lối ra xe.
Đèn đường chiếu qua
những cành cây đang lay động. Massia bước lên chiếc Mếtxêđét, nàng vẫy tay chào
và lái đi.
Khi Giôsê đi vào lại
nhà, chàng thấy có hai bóng người bên kia đường. Đó là hai người đến gặp chàng
buổi sáng.
Comments
Post a Comment