07 Giôsê - Chương bảy
CHƯƠNG
BẢY
Sáng hôm sau Giôsê nằm
trên giường, đầu ngả lên gối nghe tiếng mưa rơi trên mái nhà. Những hạt mưa rơi
đập đều đặn lên khung cửa sổ nghe êm ả như tiếng nhạc. Lòng trí Giôsê như ở đâu
xa. Chàng trầm tư rất lâu như thể đang thị kiến thời gian và không gian tận
cùng xa. Rồi chàng rời nhà lên con lộ chính để đi ăn sáng.
Mô Sanđê từ hướng
kia đi lại, anh cũng đi ăn sáng. Anh cùng đi với Phát và Hơm. «Kìa, ai đang đến đó!», Phát kêu lớn, tiếng
chàng phá tan cái yên tĩnh của sáng sớm. Giôsê không thể không nghe, nhưng vì
còn xa trăm thước nên chàng chỉ vẩy tay và mỉm cười, vì họ thình lình nhận ra
chàng. Khi họ đến gần, Mô chào Giôsê. «Chào
các anh», chàng đáp lại trong khi ba người bước vào quán.
Một số người trong bọn
đã đến đó trước, và tiếng muỗng đĩa nghe vang cả phòng. Mùi thịt heo muối chiên
và trứng gà làm mọi người thèm ăn và vui vẻ lên. «Kìa, cô bạn gái của Giôsê có vẻ hớn hở vì Giôsê có ở đây», Hơm nói
đùa về Mari cô chủ quán. Mọi người đều biết Mari thích Giôsê lắm. Nàng không giấu
được điều đó, vì mỗi khi Giôsê đến thì nàng luống cuống đỏ cả mặt. Nàng vô tình
tự tiết lộ, không làm sao giấu diếm được. Giôsê biết điều ấy, chàng nháy mắt mỉm
cười với nàng.
Nàng tiếp tục đỏ mặt
và đứng ở chỗ mà nàng biết Giôsê sẽ ngồi. «Chào
Mari», chàng thân ái chào nàng và bình tĩnh nói thêm, «Cô xem sáng sủa và đẹp đẽ trong một ngày u ám».
Mặt nàng càng đỏ lên
hơn. «Ai cũng nói tôi vui mỗi khi anh đến.
Anh ăn sáng thứ gì?».
Giôsê đọc thực đơn
treo ở tường phía trên lò nấu và gọi món ăn. «Tôi ăn bánh rán và xúc xích với nước cam và cà phê».
Mari viết lên giấy
và đặt một ly cà phê nóng hổi ở chỗ chàng. Những người kia nhìn chàng, làm ra vẻ
ganh tị. «Kìa, anh ta được tiếp ngon lành
quá. Người đặc biệt», Hơm nói cách vui vẻ. Mô chòm qua quày hàng vớùi lấy
bình cà phê. Chàng đổ cà phê vào ly mỗi người và nói, «Tôi nghĩ là mình phải tự hầu bàn lấy nếu muốn có ăn». Trong khi Mô
đổ cà phê, một cô chiêu đãi bước lại dành lấy bình cà phê tiếp mọi người. «Nếu các chú tử tế như Giôsê, có thể cũng sẽ
được tiếp đãi cách đặc biệt», nàng nói trong khi rót ly cuối cùng.
Mới quá bảy giờ và
là sáng thứ bảy nên quán còn trống một nửa. Tiếng nói của Phát vang cả phòng, lấp
hẳn tiếng mọi người. «Nghe nói anh ở nguyện
đường Do Thái tối qua». «Anh làm gì ở
đó?». Phát không cố ý làm mích lòng, đó là lối hỏi chuyện của anh. Cái gì
có trong bụng là anh nói ra ngay.
Giôsê uống một hớp
cà phê nóng đầy miệng nên bị sặc khi Phát hỏi bất ngờ. Mấy người đàn ông phá
lên cười. «Vâng, tôi thích lắm. Nếu có ở
đấy, các anh cũng thích nữa», Giôsê đáp.
«Không chắc», Phát đáp lại. «Anh làm gì ở nguyện đường?»
«Họ đặt tôi chạm một tượng Maisen và mời tôi
đến xem. Tôi cảm thấy tự nhiên lắm. Chúng tôi đều là Do Thái, về mặt tinh thần».
«Tôi thì không», Phát phản đối. «Có thể Mô là Do Thái và người anh của hắn
càng giống Do Thái hơn».
Mari để bánh rán
nóng hổi và xúc xích trước mặt Giôsê. Nàng cũng để thêm vài miếng bơ và nháy mắt
như muốn nói, «Đừng cám ơn, kẻo họ thấy
mà cười». Giôsê mỉm cười đáp lại. Chàng thích cô gái vui tính này. Nhưng cử
chỉ của Mari không che mắt ai được. Mô ngồi gần Giôsê thấy được nên phàn nàn, «Thấy chưa. Cô nàng cho anh ta thêm bơ. Tiếp
đãi đặc biệt mà. Cô ả đâu có tiếp mình như vậy, mặc dù mình đến đây mấy năm rồi».
Mari chỉ lờ đi và tiếp
tục làm việc.
Hơm thường ít nói, nhưng
nay lại mở miệng, «Anh đi lễ nhà thờ
chúng tôi phải không, Giôsê?», anh hỏi.
«Có», Giôsê trả lời.
«Tôi thấy anh ở đó, nhưng không bao giờ thấy
anh đi chịu lễ, nên không biết anh có đạo hay không».
«Tôi chịu lễ theo lối của tôi, thật khó mà giải
thích», Giôsê trả lời.
Phát nắm ngay lời
chàng về vấn đề đó, «Anh muốn nói gì theo
lối của anh? Hoặc là chịu lễ, hoặc là không».
Giôsê cười và cố giải
thích. May thay chàng được cô chiêu đãi cứu: nàng đem thức ăn sáng đến cho Phát,
làm cho mọi người quên đi một lúc, nhưng rồi Mô nói rằng anh thấy Giôsê đi nhà
thờ Mêtôđít một Chủ nhật.
Giôsê gật đầu. «Tôi cảm thấy thoải mái khi người ta thành thực
tôn thờ Cha tôi». Câu nói rất đơn sơ làm mọi người thoả mãn, nhưng mỗi khi
Giôsê nói «Cha tôi» thì khác với lối
nói của mọi người, điều đó làm họ thắc mắc. Giôsê nói những lời đó một cách
trìu mến, không ai biết đó là lối nói hoa hoè hay là chàng cảm thấy một liên hệ
mật thiết với Thiên Chúa. Sau đó cả quán im lìm, chỉ còn nghe tiếng muỗng đĩa
khua. Mọi người đều bận ăn.
Sau khi ăn xong, họ
nối đuôi nhau trả tiền ở máy tính. Giôsê để dưới cốc khá tiền thù lao trước khi
đi. Rồi mọi người rời quán.
Bốn người đi đến góc
đường rồi rẽ ra đường hẽm.
«Quỉ ma nào bắt anh dọn về ở đây?», Hơm hỏi
Giôsê. Hình như họ chỉ muốn chất vấn Giôsê, nhưng chàng không quan tâm.
«Ở đây yên tĩnh và bình an, dân chúng lại
thân thiện», chàng thành thật trả lời.
«Anh nên làm chính trị», Mô nói, «anh biết phải nói gì».
«Anh xem ra hạnh phúc lắm mặc dù chỉ sống một
mình. Anh không cảm thấy cô đơn khi sống độc thân sao?», Hơm hỏi.
«Không. Tôi thích ở một mình. Người ta đến
nói chuyện với tôi suốt ngày và nhờ tôi làm đồ cho họ. Vả lại, Chúa ở với chúng
ta trong mọi lúc, và Ngài có thực, mặc dù chúng ta không để ý đến điều đó lắm».
«Chúa ở với mọi người, nhưng tôi cũng cảm thấy
cô đơn. Khi anh làm việc xong, về đêm anh ước mong cái gì trong căn nhà trống?»,
Phát đối lại. «Nếu có người nấu nướng và
lo lắng cho khi làm việc xong lúc đêm về, không tốt hơn sao?».
«Vâng, tôi cũng nghĩ thế, nhưng tôi thích sống
thế này. Tôi thích nấu ăn và dùng bữa yên thắm rồi đi bộ qua đồng cỏ. Cái đẹp của
thiên nhiên vô cùng hấp dẫn, và cảnh trí cũng thật yên tĩnh. Anh không thích
đôi khi ở một mình sao?».
«Anh nói đúng lắm», Phát nói, «nhất là khi vợ tôi giận vì tôi làm gì sai
hay là vì tôi to mồm. Nhưng vợ tôi cũng tốt lắm. Có thể chỉ tại tôi».
«Anh xem ra rất thông minh, Giôsê», Hơm
nói, và với vẻ quan trọng anh hỏi tiếp, «anh
nghĩ thế nào về tôn giáo?»
«Anh muốn nói gì? Có phải muốn nói tôn giáo
là lề lối hiện nay, hay lề lối Thiên Chúa muốn phải như vậy? Hai điều đó khác
nhau lắm».
«Vâng, lề lối hiện nay, lề lối mà Giáo hội dạy».
«Thiên Chúa không bao giờ muốn tôn giáo trở
thành như ngày nay. Giêsu đến thế gian để giải thoát con người khỏi cái loại
tôn giáo gò bó đe doạ họ, nếu họ không tuân theo lề luật và lễ nghi do nhóm
giáo sĩ đặt ra. Giêsu đến dạy rằng con người là con cái của Thiên Chúa, và vì
là con cái của Thiên Chúa, họ được tự do, tự do lớn lên làm con người, tự do trở
thành một dân tộc tốt đẹp mà Thiên Chúa muốn. Điều đó không thể đặt thành luật.
Giêsu ban cho các tông đồ và cộng đồng sự giúp đỡ, hướng dẫn và ủi an. Giêsu
không nghĩ đến việc đặt các kẻ lớn theo nghĩa thế gian. Ngài muốn các tông đồ
phải hướng dẫn và phục vụ, chứ không phải ra lịnh và làm luật như những người
cai quản thế gian. Tiếc thay, các nhà lãnh đạo tôn giáo mô phỏng các chính quyền
dân sự và đối xử với dân chúng giống vậy. Vì làm thế đó, họ sa vào cạm bẩy mà
các ký lục và Pharisêu đã sa vào, khiến tôn giáo trở thành một số những điều phải
kiêng giữ, có tính cách pháp luật và nông cạn. Do đó họ được tôn sùng chứ không
phải Thiên Chúa, họ làm cho dân chúng chỉ quan tâm đến luật lệ và lễ nghi của họ
hơn là yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.»
«Thi hành các thói quen cũng như các truyền
thống đã thay thế việc phụng thờ Thiên Chúa, đó là một cản trở lớn cho việc trưởng
thành trong tình yêu của Thiên Chúa. Nếu dân chúng quá tin vào các vị lãnh đạo
tôn giáo, thì họ sẽ trở thành cứng nhắc
trong tư tưởng và không dám suy tư cho chính mình, nhưng chỉ đợi các vị lãnh đạo
quyết định giùm cho. Cả những người trưởng thành cũng còn bám lấy những lối sống
đạo thời thơ bé, và khi lễ nghi và thói quen thay đổi thì họ lại đâm hoảng sợ, vì
họ đã được dạy đó là đức tin của họ. Với một tâm trạng như thế thì làm gì có trưởng
thành, bởi vì muốn trưởng thành thì phải thay đổi, và muốn thánh thiện thì phải
liên lỉ tìm hiểu Thiên Chúa và những gì Ngài muốn nơi mỗi người chúng ta. Nếu
ai không mở lòng cho Thánh Linh soi sáng vì các linh mục không cho phép, thì cả
Thánh Linh cũng không làm sao hoạt động nơi họ được, họ sẽ bị cằn cỗi. Tệ hơn nữa,
chính họ là người làm hỏng kế hoạch mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi họ. Chính
đó là lý do tại sao các tiên tri thời xưa là các vĩ nhân. Các ông đã dám to gan
nhìn xa hơn cái ranh giới của những truyền thống đạo giáo và đưa ra đường lối
hướng dẫn đoàn dân Thiên Chúa. Các ông đã can đảm bẻ gẩy những hình thức tôn
giáo khô cằn và cứng nhắc, và trêu ngươi các vị lãnh đạo tôn giáo, làm họ thù
ghét và bắt hại các ông. Thực vậy, họ còn nhân danh Thiên Chúa mà giết một vài
người trong các ông. Các vị lãnh đạo tôn giáo đã sa vào cạm bẩy muốn kiểm soát
tôn giáo và lề lối sống đạo của dân chúng, và không để dân chúng tự suy tư cho
chính mình, vì các ông sợ sẽ không kiểm soát được họ».
Các đồng bạn của
Giôsê chăm chú lắng nghe, họ say mê cái nhiệt tình và sáng suốt của con người
mà lúc bình thường xem ra rất hiền lành và trầm tĩnh. Khi Giôsê nói xong, họ
yên lặng, không thêm được lời nào và cũng chẳng hỏi được câu nào.
Cuối cùng Hơm lên tiếng
nói với Giôsê, «Anh xác tín về điều đó lắm,
phải không?»
«Vâng», Giôsê trả lời, «bởi vì Giêsu không muốn tôn giáo làm khổ dân
chúng như thế. Thật là quái gỡ, vì nhiều vị lãnh đạo tôn giáo đã bách hại và cả
đến tra tấn dân chúng vì lòng tin của họ. Thiên Chúa luôn luôn trọng tự do của
con người. Đức tin là một ân huệ. Con người phải được tự do tin tưởng. Bổn phận
của các nhà lãnh đạo tôn giáo là đưa con người đến gần Thiên Chúa bằng gương sống
đức tin và bằng đời sống tốt đẹp của mình, chứ không phải doạ dẫm dân chúng phải
tuân giữ những luật lệ khô khan bên ngoài. Đấy không phải là tôn giáo. Đó chỉ
là nhạo báng tôn giáo thôi».
«Tôn giáo thật phải phát xuất tự đáy lòng. Đó
là sự liên hệ sâu xa với Thiên Chúa, nó đem lại hoà bình, an vui và tình yêu
cho dân chúng, chứ không phải sợ sệt. Việc tôn thờ chỉ có ý nghĩa khi có được tự
do. Thiên Chúa không được vinh danh khi người ta tôn thờ Ngài vì sợ tội hay sợ
hình phạt. Thiên Chúa cũng không được vinh danh bởi những lề luật trống rỗng
tình yêu. Thiên Chúa chỉ hài lòng với một tâm hồn tự do yêu mến Ngài. Nếu không
được như vậy thì chỉ là giả dối và chỉ phục vụ cho nhu cầu ngắn hạn của các tổ
chức tôn giáo».
Mấy người đàn ông
chưa sẵn sàng để nghe những lời đó, nhưng họ cũng thích thú nghe Giôsê nói về
việc chàng làm. Trong bụng họ tin điều chàng nói, nhưng trong đời sống họ không
bao giờ có thể nói lên những gì chàng vừa nói. Mô nói lên ý nghĩ của mọi người
khi anh nói với Giôsê, «Anh nên làm linh
mục mới phải. Chúng tôi cần nghe nói như vậy. Chúng tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng
không bao giờ nghe nói trong nhà thờ. Nhưng tôi nghĩ là không một giáo sĩ nào
dám ăn nói như thế, vì họ sẽ bị sa thải tức khắc».
«Anh học những điều đó ở đâu, Giôsê?», Hơm
hỏi với giọng kính phục.
«Khi mình nghĩ những gì một cách xác tín, thì
rất dễ dàng mà diễn tả chúng. Chúng ta cần phải biết rằng Thiên Chúa yêu thương
chúng ta và không nên để bất cứ ai, cả đến những vị lãnh đạo tôn giáo, ngăn cấm
chúng ta biết điều đó».
Mấy người đàn ông rất
hài lòng vì đã cùng đi bộ với chàng. Họ chưa bao giờ nói chuyện với ai như vậy,
nhưng đấy là điều mỗi người trong bọn họ suy nghĩ trong lòng mà không dám cùng
ai chia sẻ. Họ rất đổi vui sướng khi nghe Giôsê nói một cách thong dong và
không ngại ngùng.
Khi bốn người về đến
làng, Phát mời Giôsê đến dự tiệc ở nhà anh tối hôm đó. Giôsê thích lắm và nhận
lời ngay.
Không mấy chốc họ đã
đến nhà Giôsê, họ đứng lại vài phút ở cổng rồi chia tay mỗi người đi một ngả.
Giôsê vào nhà, nghỉ
ngơi một chốc rồi ra phòng làm việc bắt đầu làm. Mặt trời chiếu qua cửa sổ, rọi
sáng các đồ làm gần xong nằm đây đó khắp phòng: cái nằm trên bàn, cái trên kệ, cái
nữa nằm trên đồ nghề, hoặc dưới sàn. Có mấy cái đã làm xong, mấy cái khác còn
đang dở dang.
Chốc nữa người ta sẽ
đến lấy hàng. Giôsê biết phải làm cái nào trước, đó là cái ghế cổ nằm trong góc
phòng, chân gãy và lưng bị thiếu mấy miếng gỗ. Cái chân ghế mới làm xong và mấy
miếng gỗ lưng đang để trên ghế. Chàng làm chúng khi rảnh tay trong tuần lúc
không làm tượng. Chúng dễ làm nên không mất nhiều thì giờ lắm, chỉ còn đánh nhám
và dán vào.
Chàng làm xong cái
ghế lúc mười giờ và để nó qua một bên. Công việc tiếp theo là một cái đồng hồ cổ
treo tường có khung chạm rất đẹp nhưng bị gãy hoặc mẻ cùng hết. Chàng dựng đồng
hồ tựa vào vách sau lưng bàn thợ và lên giây để nghe tiếng chuông. Tiếng chuông
nghe mộc mạc nhưng dễ thương, nghe như tiếng thủy tinh. Trong khi chuông đồng hồ
đánh, Giôsê ngồi xuống cái ghế nhỏ và thả hồn theo tiếng nhạc cổ, trí chàng trầm
tư về thời gian, về vĩnh cửu và cách sáng chế tinh xảo của đồng hồ để đo các
khoảnh khoắc thời gian cho hoàn toàn hoà hợp với vận chuyển của các hành tinh. Chàng
nghĩ ít kẻ biết rằng thời giờ không có thật, nó chỉ là một điều tưởng tượng, một
ảo ảnh, không có dĩ vãng cũng như không có tương lai, nhưng chỉ là hiện tại. Trí
khôn con người bày vẽ ra dĩ vãng bởi vì con người chỉ có thể kinh nghiệm được
hiện tại trong từng khoảnh khoắc nhỏ bé và nhứt thời. Khi không còn kinh nghiệm
thì cũng không còn dĩ vãng. Để ghi lại kinh nghiệm, con người nghĩ ra dĩ vãng. Họ
tổng kê những kinh nghiệm và gọi đó là dĩ vãng, rồi đặt chúng vào những khung
thời gian khác nhau. Với trí khôn con người thì tương lai là trống rỗng, là hư
không. Mặc dù tương lai đã có đối với Thiên Chúa, nhưng nó chưa có trong ống kiếng
kinh nghiệm của con người, vì thế nó được gọi là tương lai. Có bao giờ trí khôn
con người hiểu được rằng dĩ vãng đang còn đây và tương lai đã có đây không?
Tiếng chuông đồng hồ
ngừng đánh. Sự tĩnh mịch kéo Giôsê ra khỏi cơn mơ. Chàng cầm lấy đồng hồ lên
nhìn, rồi đặt nó xuống bàn và bắt đầu làm việc. Chàng dùng cưa cắt vứt đi những
hoa hoè bị gãy và bỏ chúng qua một bên. Công việc tiếp theo hơi khó hơn. Chàng
phải chạm lại những phần bị gãy và làm giống hệt như trước. Phải tốn nhiều thì
giờ, nhưng xem ra chàng thích công việc tẩn mẫn và tỉ mỉ đòi hỏi nhiều tinh vi.
Chàng chạm lại những miếng bị gãy và dùi những lỗ nhỏ sau lưng chúng. Rồi chàng
làm những cái chốt cùng cỡ, nhúng keo đặt vào mấy cái lỗ và gắn các hoa hoè vào.
Phải mất một phần lớn
trong ngày mới làm xong; nhưng sản phẩm thật hoàn hảo, đến độ không thể nói là
nó đã được sửa lại.
Ngày trôi qua rất
mau. Giôsê chỉ ngưng việc có hai lần, một lần ăn trưa và lần thứ hai khi một cặp
vợ chồng già đến lấy cái ghế cổ; nó không phải là đồ cổ, nhưng chỉ là một trong
những cái ghế họ còn giữ trong nhà. Họ đã bán hầu hết đồ đạc để trả tiền các
chi phiếu, và cái ghế này với một vài đồ đạc khác là những cái họ còn giữ. Khi
thấy cái ghế, họ thích thú nhìn nó. Nó đẹp và cứng cáp. Bà già ngồi xuống ghế; nó
chắc chắn lắm. Giôsê hài lòng mỉm cười. Khi ông già định trả tiền, Giôsê hỏi
ông có làm giúp chàng một việc không. Chàng biết họ nghèo và không muốn lấy tiền
họ. Nhưng chàng lại không muốn làm mích lòng họ, nên chàng đưa họ vào bếp và
xin bà già chỉ cho chàng vài cách thức nấu gà. Bà dạy chàng vài công thức và nhứt
quyết phải viết ra cho chàng. Trong khi bà viết, ông già nhìn thấy cái vỉ nướng
ngoài sân bèn dạy cho Giôsê một công thức nướng gà. Giôsê tỏ vẻ rất biết ơn. Và
khi chàng từ chối lấy tiền sửa ghế vì hai ông bà đã tử tế với chàng, họ cảm thấy
mình đã làm giúp chàng được một việc, vì thế họ vui vẻ ra về. Giôsê đề nghị vác
hộ ghế đến nhà, nhưng họ không chịu.
Khi họ ra về, Giôsê
nhìn theo. Họ thay nhau khó nhọc vác cái ghế đi lên con lộ chính để về nhà.
Lúc bốn giờ ba mươi
Giôsê nghỉ việc. Đó là một ngày dài làm việc cực nhọc. Mặc dù công việc không nặng
lắm, nhưng nó tỉ mỉ, thành thử làm chàng mỏi mệt. Mặt trời còn nóng và còn trên
cao, vì thế chàng quyết định đi bơi và có lẽ ngủ một ít. Chàng phải đến nhà
Phát Dumba dự tiệc tối nay, tiệc có thể kéo dài đến khuya, đó là điều chàng
không quen, vì thế chàng cần phải đi ngủ trước.
Comments
Post a Comment