07 Chương bảy ‒ Người chăn chiên hiền lành


Chương bảy
Người chăn chiên hiền lành

Rất nhiều lần khi gặp một người tốt, chúng ta khó mà chấp nhận họ ngay. Trong đầu vẫn thường đặt một dấu hỏi, «Người ấy có hậu ý gì? Người ấy thế nào?» Điều đặc biệt mà tôi thấy nơi Đức Giêsu là ngài không có hậu ý gì cả và dân chúng cũng đã sớm thấy điều đó. Ngài rất thành thật và tốt lành. Phải lâu lắm tôi mới hiểu được tại sao các người lãnh đạo tôn giáo không thành thật. Từ thuở bé tôi được dạy rằng giáo sĩ là những người tận hiến cho Thiên Chúa. Khi tôi trở thành một giáo sĩ, tôi tin rằng các vị bề trên và giám mục khác với mọi người và chỉ lo việc của Thiên Chúa và lợi ích thiêng liêng của những người các vị phụ trách. Khi tôi thấy các vị không phải luôn luôn như vậy, tôi rất chán nản. Tôi đã sống và làm việc với nhiều vị thánh thiện và tận tâm, nhưng có nhiều vị lại tìm lợi ích cá nhân và mưu đồ chính trị, trong khi những linh mục không có vây cánh thì phải tranh đấu và cảm thấy hẩm hiu vì bị bỏ rơi và không ai quan tâm đến.
Khi Đức Giêsu bắt đầu sứ mệnh của mình, chắc dân chúng cũng nghi ngờ ngài có thành thật không. Nhưng khi họ thấy ngài sống đúng như mắt thấy, họ không còn nghi ngờ gì nữa. Chính sự thành thật và đơn giản của ngài là một đe doạ lớn đối với những người lãnh đạo tôn giáo. Muốn giao thiệp với ngài thì phải thẳng thắn và liêm chính. Điều này họ không làm được vì có nhiều điều họ muốn giấu, họ không ngay thẳng. Họ đã đánh mất cái đẹp đẽ của mình cũng như sự thành thật rất thiết yếu đối với một người chăn chiên hiền lành chỉ lo cho các chiên của mình được no ấm. Các con chiên thì nhút nhát, chúng cần phải thấy sự đơn sơ nơi các người chăn. Có một lần trong một buổi nói chuyện ở Lansing thuộc Michigan tôi gặp một giám mục. Ông ta có vẻ trẻ thơ như Đức Giêsu nói. Ông không hách dịch, không xem mình quan trọng làm cho người ta xa lánh. Lúc trước ông là một cha sở bình dân, và khi làm giám mục ông vẫn giữ tư cách đó. Gặp ông, tôi rất cảm động. Tôi nghĩ rằng một người chủ chăn chân thật thì không lừa đảo. Tôi cũng quen biết một số giám mục và Tổng giám mục giống như thế.
Các ông rất tử tế làm cho đời sống tinh thần của tôi mạnh mẽ hơn khi tôi cảm thấy cô độc.
Tôi kể ra những điều trên vì dân chúng so sánh với lối sống của Đức Giêsu. Họ thấy ngài không tự mãn nhưng thành thật đơn sơ. Họ thấy ngài quan tâm đến họ, không như các kinh sư và người Pharisêu chỉ thích làm lớn và quan trọng, mà còn xảo trá và mưu đồ chính trị. Đức Giêsu không hách dịch. Ngài nghèo và hài lòng với số phận. Ngài có một cái áo choàng, có lẽ mẹ của ngài may cho, loại áo không có đuờng khâu. Đó là chiếc áo mà binh sĩ bắt thăm dưới chân thập tự. Có lần ngài nói, «Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi để tựa đầu.» Ngài nói không phải để người ta thương hại, cũng không phải ngỏ ý xin tiền. Ngài chỉ nói cách thành thật rằng ngài không có gì cả và bằng lòng như vậy. Điều này làm cho dân chúng cảm thấy thoải mái.
Tôi nghĩ đấy cũng là điều làm cho phụ nữ không sợ ngài, nhưng theo ngài đi cùng khắp. Đó là điều bất thường khi thấy các phụ nữ trưởng thành đi theo một nhà lãnh đạo ngoài đường từ thành này đến thành kia. Ở thời ấy đàn ông chỉ được nói chuyện với vợ mình, nhất là ở nơi công cộng. Các bà không phải là những người tầm thường hết, chẳng hạn bà vợ của viên quản lý vua Hêrốt là một trong những bà thân cận với Đức Giêsu. Các bà cảm thấy tự nhiên với ngài và cũng không cảm thấy tai tiếng gì khi theo phục vụ ngài.
Dân chúng thấy rõ Đức Giêsu không ham làm những việc vĩ đại, hoặc có mưu đồ chính trị hay muốn nổi danh. Họ biết ngài không có thâm mưu gì và cũng không dùng họ cho tham vọng của mình. Họ cảm thấy thoải mái và tín cẩn ngài. Cách ngài đối xử với người thanh niên giàu có đến gặp ngài cũng chứng tỏ ngài không lợi dụng dân chúng, nhưng tôn trọng sự tự do của họ khi họ tìm kiếm và lựa chọn mục tiêu của mình. «Tôi phải làm gì để được cứu rỗi?», người thanh niên hỏi. Đức Giêsu thẳng thắn trả lời, «Hãy giữ các Điều Răn». «Tôi đã giữ từ thuở bé», người thanh niên đáp với vẻ thất vọng. Đức Giêsu bèn chỉ lối cho anh, nhưng chỉ là một lời đề nghị vì anh ta muốn làm một cái gì cho đời anh. «Nếu anh muốn nên hoàn hảo, thì hãy về mà bán hết tài sản và cho người nghèo.» Đức Giêsu không đòi hỏi ở người thanh niên gì cả, ngài chỉ trả lời anh một cách vô tư như không mấy quan tâm. Không phải là ngài không quan tâm đến anh, nhưng ngài kính trọng sự tự do của anh. Trong giai thoại này, điều ngạc nhiên là Đức Giêsu biết anh ta giàu khi anh đến gặp ngài. Anh ta giàu có cũng không phải là một vấn đề đối với ngài. Ngài biết anh là người tốt. Còn có nhiều người giàu khác Đức Giêsu cũng đón tiếp như anh, chẳng hạn ông Giuse Aratêma, người đã dâng huyệt của mình để chôn Đức Giêsu. Maria, Mátta và Lazarô cũng không phải là những người nghèo. Họ có của cải. Dường như Đức Giêsu xem giàu có cũng như mọi ân huệ khác mà Thiên Chúa ban. Tiền bạc chỉ là một ân huệ cần phải dùng cách khôn ngoan và quảng đại. Tài năng là ân huệ. Cũng giống như tiền bạc, tài năng có thể bị lạm dụng. Nếu tài năng có thể dùng làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách giúp đỡ người khác, thì tiền bạc cũng vậy. Nếu bạn được ban nhiều tài năng và tài sản, hãy cảm tạ Thiên Chúa và dùng chúng cách khôn ngoan. Hãy chia xẻ chúng cách quảng đại với những ai không có. Đức Giêsu không mong bạn làm gì hơn, cũng không đòi hỏi gì hơn.
Trong cách thức đối xử bình dân của Đức Giêsu, dân chúng thấy ở ngài một cái gì trần tục, một lối hoà mình với nhân loại và thích thú làm người. Tôi thường có cảm nghĩ rằng ngài rất thích làm người hơn ai hết. Ngài thích ngài là ai. Ngài thích ngắm chim trời tự do và đẹp đẽ, ngắm những con chồn tinh khôn chui từ hang ra lúc chạng vạng và lẫn lút đi trong đồng cỏ với cặp mắt lơ láu theo từng bước đi, ngắm những con chim câu đơn sơ dễ bị chim cú và diều hâu bắt làm mồi. Ngài thích ngắm màu sắc rực rỡ trên trời lúc mặt trời lặn. Bạn cũng có thể nghĩ rằng ngài thích tắm nước mát dưới sông Giodan trong những ngày hè nóng nực, thích cảm giác mát mẻ, hoặc thích nằm trên cỏ nhìn lên trời, hay thả mình trôi dưới nước mặn của Biển Chết, cùng bạn bè hưởng những cái đẹp thiên nhiên.
Không cần phải đọc Phúc âm nhiều mới thấy rằng Đức Giêsu luôn luôn đi bộ, ngài không bao giờ cưỡi ngựa hay lừa hay đi xe. Tôi cố gắng tính xem ngài đi bộ bao nhiêu dặm trong ba năm đi rao giảng. Khó mà tính cách chính xác, nhưng cứ nghĩ rằng ngài đi đi lại lại giữa hai vùng Galilêa và Giuđa, lúc thì dừng lại ở các làng mạc trên đường đi, cũng phải hơn sáu ngàn dặm, đó là chưa kể lúc ngài đi lại trong phố trong ngày.
Dáng điệu của ngài cũng là thành phần của Tin Mừng. Ngài là ai và là người như thế nào, điều đó cũng nói lên nhiều lắm. Ngài không có nhà. Ngài thường ngủ trên các cánh đồng hay trên sườn đồi sau khi kinh nguyện lâu giờ. Thỉnh thoảng ngài cũng ở nhà bạn, như nhà của Maria, Mátta và Lazarô. Nhưng cả lúc đến gần nhà của họ mà ngài cũng ngủ trong rừng ô-liu dưới chân núi Ôliu. Cũng vì thế mà Giuđa biết đường để dẫn cận vệ của linh mục thượng phẩm đến bắt ngài. Đó là một nơi kín đáo và yên tĩnh mà Đức Giêsu và các môn đệ nghỉ qua nhiều đêm.
Sáng hôm sau đêm nghỉ trên sườn đồi Ngài xuất hiện trong làng. Ngài là người như thế nào? Ngài có dáng tươi tắn và áo quần sạch sẽ không? Ngài tìm đâu ra nơi để tắm rửa, cạo râu hay đánh răng, hoặc chải tóc? Chắc là ngài không chải chuốt lắm. Tay ngài phải sần sù vì nghề mộc. Vì phải đi đường xa để rao giảng và cũng không có nhà hàng dọc đường, chắc người ngài phải thon và gân cốt. Da ngài phải ngăm đen vì đi nhiều ngoài nắng và có khi đi từ ngày này qua ngày nọ. Tóc râu của ngài cũng không chải tử tế vì chắc ngài không mang lược trong túi và cũng không có phương tiện để cạo râu thường xuyên. Mắt ngài phải làm cho dân chúng chú ý, vì mắt là kính rọi của linh hồn và phản ảnh con người. Khi dân chúng nhìn vào mắt ngài, họ thấy gì? Tôi nghĩ họ có cảm giác sờ sợ, «Ông này biết tôi. Nhìn cặp mắt ổng là biết ngay. Khi ông nhìn tôi, thì như nhìn thẳng vào tâm hồn tôi. Dường như ông biết những bí ẩn của tôi và muốn nói với tôi, “Tôi biết mọi sự về bạn. Tôi biết những gì xảy ra ngày hôm qua. Tôi biết bạn không vui lắm. Tôi biết bạn cố gắng làm điều tốt và đến với mọi người để giúp đỡ họ. Tôi muốn bạn biết rằng chúng ta là bạn hữu. Tôi yêu bạn. Đừng sợ hãi, bạn thế nào thì tôi yêu bạn thế ấy. Đừng thất vọng. Sống không phải là dễ. Nên nhớ rằng bạn là người và bạn chỉ có thể làm những gì Thiên Chúa ban sức cho mà làm. Rồi Cha của tôi sẽ cho bạn ân sủng để trở thành người như bạn muốn, nhưng chỉ khi nào ngài muốn. Vì thế hãy nhẫn nại và khiêm tốn. Giờ đây nên nhớ rằng tôi yêu bạn và luôn luôn ở bên bạn”.»
Tôi nghĩ rằng đó là điều dân chúng đọc được trong cái nhìn của Đức Giêsu, một cái nhìn lành mạnh, không giả tạo không che đậy, nhưng nói lên sự hiểu biết sâu xa tận tâm khảm mỗi người. Người dân tầm thường lặn lội trong cuộc sống, lòng đầy thiện mỹ nhưng cũng với nhiều yếu đuối, họ cảm thấy Đức Giêsu hiểu biết và thông cảm với họ. Những người nhỏ nhen và tự mãn thì tức giận và lên án ngài. Những kinh sư và người Pharisêu phải nếm mùi cay đắng do miệng lưỡi sắc bén của ngài, «Khốn cho các ông, hỡi những kinh sư và Pharisêu, các ông là những mồ sơn vôi trắng, bên ngoài nhìn đẹp lắm, nhưng bên trong thì hôi thối và đầy xương người chết.»
Thiên Chúa sống giữa nhân loại như là người phàm, không có gì riêng rẽ, không có gì khác biệt, vì thế cả Gioan Tẩy Giả cũng không nhận ra ngài. «Dẫu là Thiên Chúa, ngài cũng không nghĩ phải bám lấy địa vị đó, nhưng bỏ hết để mang lấy thân phận tôi tớ, chịu sinh ra như người phàm, và mang lấy thân phận con người, ngài tự hạ mình…» (Phil 2: 6).

______________________



Comments

Popular posts from this blog

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Hãy cải thiện Giáo Hội từ gốc chứ đừng từ ngọn

Về phản ứng của Ban Biên Tập Công giáo Việt Nam