08 Chương tám ‒ Đức Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa
Chương tám
Đức
Giêsu là hình ảnh
của Thiên Chúa
của Thiên Chúa
Vì
là người, chúng ta không thể bỏ đi lối suy tư của con người. Do đó, khi chúng
ta suy tư về Thiên Chúa, rất khó mà nghĩ ra ngài là ai, để rồi cuối cùng chúng
ta thu giảm ngài lại, gán cho ngài phái tính, đóng ngài vào một khuôn khổ để
chúng ta hiểu được. Vì thế, chúng ta tạo nên ngài là một người như chúng ta, có
một cái nhìn thiển cận về đời sống, có những cái nhìn, những giá trị và cảm xúc
ảnh hưởng đến phản ứng về mọi hoàn cảnh như chúng ta thường có.
Khi
đề cập đến những vấn đề của Giáo hội và thần học, dĩ nhiên chúng ta cũng nghĩ
Thiên Chúa xét đoán mọi sự như chúng ta nghĩ, như thế là đặt tư tưởng của Thiên
Chúa trên cùng bình diện với suy tư của con người. Đó là lý do những người theo
trào lưu chính thống trong mọi tôn giáo nghĩ rằng lối suy tư của họ về Thiên
Chúa và về tôn giáo là bất khả ngộ, và những tư tuởng khác không hợp với họ đều
là khả nghi hay rối đạo. Để thoả mãn nhu cầu an ninh, họ trình bày tư tưởng của
mình trong những bộ luật được gọt đẽo tinh vi và tuyên bố đó là tôn giáo. Họ
đặt nhiều điều tuyệt đối mà không ai được bất đồng ý kiến với, nếu không sẽ bị
tuyệt thông. Chúng ta phải công nhận rằng có nhiều điều tuyệt đối như về vấn đề
siêu hình. Nhưng đôi khi chúng ta lại xem là tuyệt đối những điều thật ra chỉ
là tương đối vì chúng không thuộc yếu tính của Thiên Chúa hay những luật bất di
dịch của thiên nhiên. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương. Đó là một điều
tuyệt đối không có luật trừ. Chúng ta phải luôn luôn yêu thương và hành động vì
yêu thương và quan tâm đến tha nhân. Lấy tỉ dụ một người đàn ông và một người
đàn bà không cưới nhau theo luật của Giáo hội nhưng họ cưới nhau theo dân luật.
Họ có năm đứa con, chúng cần có một gia đình nguyên vẹn để đời sống được ổn
định cũng như lớn lên cách lành mạnh cả về tâm lý và tình cảm. Này đây một giáo
sĩ bảo rằng họ sống trong tội lỗi và phải bỏ nhau hoặc phải sống với nhau như
anh em. (Tôi có cố vấn cho nhiều đôi vợ chồng có thiện chí đã làm theo lời dạy
của một giáo sĩ để khỏi phạm tội.)
Nếu
tình yêu là một điều tuyệt đối đối với Thiên Chúa thì chúng ta phải đặt câu hỏi
như thế này: Họ phải hành động thế nào nếu muốn sống thật sự theo tình yêu? Rồi
hãy xét mọi vấn đề khác. Nếu công nhận rằng tình yêu là một tuyệt đối, thì hãy
tự hỏi, «Sống với nhau theo luật đời mặc
dầu không được Giáo hội công nhận là một tương đối hay tuyệt đối?» Đó là
một câu hỏi rất chính đáng. Hôn nhân thứ hai không nhất thiết chống lại luật
của Thiên Chúa nếu đôi vợ chồng biết rằng hôn nhân trước là sai và trở thành vô
hiệu quả. Phá hôn nhân thứ hai sẽ gây nhiều thiệt hại về tâm lý và tình cảm
nhất là cho con cái, bởi vì tình yêu của cha mẹ đối với nhau sẽ ảnh hưởng đến
chúng. Tôi nghĩ rằng một ngày nào đó cặp vợ chồng gặp ngăn trở trên sẽ cùng
quyết định, «Không, chúng tôi không thể
bỏ nhau. Chúng tôi đã cam kết sống cho nhau và cho con cái và sự cam kết này
rất linh thiêng. Chúng tôi có bổn phận đối với nhau và với con cái. Chúng tôi
cần có nhau và cần yêu nhau vì nhiều lý do. Chúng tôi thuộc về nhau. Lương tâm
không cho phép chúng tôi quên đi lời cam kết này và làm hại cho con cái mà nghĩ
rằng đó là làm đẹp lòng Thiên Chúa»
Đàng
khác, tôi cũng đã chứng kiến nhiều cặp vợ chồng bỏ nhau trong những trường hợp
tương tợ và gia đình tan nát. Đời sống của mỗi người, nhất là con cái, bị bất
ổn và tạo nên nhiều khó khăn, nhưng họ lại nghĩ rằng mình đã làm một hành vi
rất anh dũng cho Thiên Chúa. Chính lối thi hành đạo của những người Pharisêu đã
làm Đức Giêsu bực bội, bởi vì họ coi lề luật trọng hơn con người và không đếm
xỉa đến luật tình yêu của Thiên Chúa mà chỉ chú trọng đến lề luật của con người.
Đối
với nhóm kinh sư và Pharisêu thì lề luật là tuyệt đối. Họ không thể chấp nhận
luật trừ mặc dù thái độ cứng nhắc của họ có gây khổ đau cho dân chúng. Những
truyền thống và tục lệ của họ là bất di dịch. Chính vì đó mà họ tố cáo Đức
Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát. Nhưng lối sống của Đức Giêsu thì lại rất
thong dong đối với lề luật. Điều này làm họ phát điên. Do đó, những người lãnh
đạo tôn giáo không nhận ra ngài là ai. «Làm
sao hắn có thể là vị Cứu tinh? Hắn không tuân giữ những gì đạo dạy là thánh. Chúng
ta được dạy rằng ngày Sabát là ngày thánh, nhưng hắn lại không đếm xỉa gì đến
những gì cấm làm trong ngày ấy và trắng trợn phạm luật cách công khai, làm
chướng tai gai mắt cho dân chúng, phỉ báng đạo giáo của chúng ta. Luật chay
tịnh đã có hàng ngàn năm, nhưng hắn bảo là phi lý và nói rằng, ỏKhông phải thứ
gì ăn vào mồm làm cho người ta hôi thối, nhưng là thứ gì từ đó ra. õ Hắn nghĩ
rằng vua Đavít làm đúng khi cho binh sĩ ăn của thánh, bởi vì lề luật được đặt
cho con người, chứ không phải con người cho lề luật, và ngày Sabát được lập cho
con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát. Từ bao thế kỷ, đạo dạy rằng
người Samaritanô là tà giáo và ly khai nên cấm dân chúng tiếp xúc với họ. Nhưng
hắn cứ đi vào đất của họ mà thăm họ và tuyên bố rằng hắn là vị Cứu Tinh, cũng
như nói rằng họ được Thiên Chúa yêu thương như chúng ta. Hắn cũng nói rằng đã
đến lúc không cần phải lên Giêrusalem hay núi Gadim mà cầu nguyện, nhưng cầu
Thiên Chúa trong lòng và bằng đời sống. Hắn làm giảm uy tín của đạo, làm thiệt
thòi cho đức tin của dân chúng và lòng sùng tín của họ. Làm sao hắn có thể là
vị Cứu tinh? Không một vị Cứu tinh nào hành động và ăn nói như thế! Vị Cứu Tinh
phải là người yêu nước, phải trung thành với tổ quốc và tôn giáo, và phải tuân
phục quyền bính của chúng ta. Dẫu sao chúng ta cũng có quyền giáo huấn được
Thiên Chúa ban cho.»
Chúng
ta cũng thắc mắc không biết thái độ của Đức Giêsu đối với thần học Kitô giáo
thế nào? Ngài có một nền thần học như chúng ta không? Những người Baptít Chính
thống thì nghĩ rằng Đức Giêsu chỉ có thể nhận các nhà thờ của họ thôi. Người
công giáo cũng vậy: Họ cũng nghĩ rằng ngài không chấp nhận những kẻ rối đạo
hoặc ly khai khỏi Giáo hội của ngài, rằng ngài không thể làm phép lạ do tay
những người Tin Lành, bởi vì làm như vậy là thừa nhận tôn giáo của họ, chắc
chắn rằng ngài không bao giờ làm thế. Những người Chính Thống thuộc các tôn
giáo khác cũng nghĩ thế. Họ nghĩ rằng những ai không cùng tin như họ thì không
làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì họ trở thành nguy hiểm cho đức tin của những
người khác, và vì thế cần phải khai trừ họ hay uy tín của họ. Đó là tâm trạng
gây nên những toà án dị giáo lùng bắt ma thuật. Điều này cũng có thể xảy ra
ngày nay nếu những người này được hành động tự do. Tôi biết một giáo sĩ Chính
thống bị khai trừ khỏi cộng đồng của ông vì ông nói rằng người công giáo cũng
có thể được cứu rỗi.
Một
buổi chiều nọ sau khi tôi diễn thuyết về Đức Giêsu thì có một bà đến gặp tôi. Bà
ta mắt long lanh muốn khóc. Bà là người công giáo mới đi hành hương ở Mêdugori
do vị chủ chăn của bà và mục sư Nam Baptít tổ chức. Khi đến đài đức Mẹ, vị chủ
chăn của bà dâng thánh lễ, nhưng từ chối trao Mình Thánh cho vị mục sư khi ông
lên rước lễ. Bà ta nói, «Chúng tôi rất
kinh hãi». Đức Giêsu có làm thế không? Đó có phải là nền thần học của Giêsu
không? Đó có phải là thần học của Vị Chủ
Chăn
hiền lành? Bà ta cũng nói rằng khi các trẻ em ở Mêdugori hỏi đức Maria rằng Con
của Mẹ nghĩ thế nào về những người Tin Lành, thì đức Maria đáp, «Con của Mẹ xem mọi người như một gia đình. Chính
các con xây tường chia rẽ nhau»
Vâng,
thật là lý tưởng nếu những người rước Mình Thánh cùng tin như nhau! Trong bữa
Tiệc Ly các môn đệ cũng chưa biết rằng Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Họ
không biết ngài là ai. Dẫu vậy, Đức Giêsu cũng trao Mình Thánh cho các ông. Tôi
biết chắc các ông cũng không hiểu Mình Thánh là gì. Phải một thời gian lâu lắm
các ông mới hiểu chu đáo mầu nhiệm Giêsu. Các ông chỉ hiểu được sau biến cố
Phục Sinh khi các ông suy niệm lại những gì Đức Giêsu đã dạy và đã làm.
Ngày
nay khi chúng ta khăng khăng đòi phải tin đúng như đạo dạy thì mới được rước
Mình Thánh, thử hỏi có mấy người Công giáo tin đúng? Tôi luôn luôn nghe theo
những điều thần học dạy, và khi làm việc ở xứ đạo tôi luôn luôn chuẩn bị các
phụ huynh và trẻ em Chịu Lễ lần đầu hay Thêm sức để chúng hiểu rõ việc mình làm.
Tôi nghĩ rằng đó là điều quan trọng. Tôi cũng nghĩ rằng những người tin vào Đức
Giêsu phải hiểu những gì ngài đã dạy. Tôi cũng hiểu một cách thực tế rằng hầu
hết những người Công giáo không biết rõ ràng phải tin gì, hoặc phải tin những
điều chính mà Giáo hội dạy. Tôi biết có nhiều người Lutêran và Êphicôpa biết về
thần học nhiều hơn là người Công giáo. Như vậy thử hỏi Đức Giêsu có khăng khăng
đòi chúng ta phải hiểu đúng thần học không. Tôi không có câu trả lời, nhưng
điều chắc là Đức Giêsu không đòi hỏi những người theo ngài phải tin nhiều điều
lắm.
So
sánh với nhóm kinh sư và Pharisêu, dường như Đức Giêsu không theo một khuôn
phép thần học mà họ đòi phải có. Không biết ngài nghĩ thế nào về việc chúng ta
khăng khăng đòi phải theo đúng luật, trong khi đó lại không quan tâm đến điều
ngài dạy mà chỉ chú trọng vào lối giải thích của mình. Ngài có nhận ra chúng ta
là một gia đình đang chia rẻ không? Hay là ngài rất đau lòng vì chúng ta xé tan
tành gia đình của ngài để đi mỗi người một phương? Ngài đòi phải làm gì nếu mọi
người chúng ta muốn đáp lại lời kêu gọi hiệp nhất của ngài để trở thành một gia
đình?
Đức
Giêsu rất thực tế trong cách hiểu biết và chấp nhận con người. Họ thế nào thì
ngài chấp nhận họ thế đó, như thể ngài nói: «Được rồi, tôi biết bạn bây giờ ở trong tình trạng nào và từ đâu đến. Bạn
không làm gì được về điều đó, chậm rồi. Thôi cứ khởi sự từ đây». Tôi nghĩ
ngài cũng nói, «Chúng ta cùng hợp tác, và
với thời gian chúng ta sẽ biết chúng ta đang ở đâu.»
Tôi
cũng thắc mắc không biết Đức Giêsu nghĩ gì về việc đòi linh mục phải độc thân. Linh
mục là chức thánh và phải được Thiên Chúa gọi. Độc thân là một điều tốt đẹp khi
được tự do lựa chọn. Tôi làm linh mục đã được bốn mươi lăm năm. Tôi yêu chức
linh mục và tôi cũng quí trọng sự độc thân và hy vọng rằng sẽ luôn luôn có
những linh mục độc thân trong Giáo hội. Nhưng tôi cũng đã thấy quá nhiều, thấy
những đau khổ và tuyệt vọng của những linh mục khi họ khám phá ra rằng mình
không thể sống cô độc. Họ được gọi làm linh mục, và lời gọi ấy mạnh mẽ quá làm
họ phải cố dập tắt mọi nhu cầu khác để đạt đến chức vụ ấy. Một khi đã đạt được
rồi, những nhu cầu khác lại chỗi dậy, và hỡi ôi, «Lạy Chúa, sao con thế này. Con không thể sống như vầy được nữa. Con sẽ
điên vì cô đơn.» Linh mục đâm ra chán nản, không suy nghĩ, không cầu nguyện
được và cuối cùng không hoạt động được nữa. Đấy không phải chỉ là than thân
trách phận nhưng là một thực tế rất đau khổ. Để cứu vãn tình trạng suy thoái
này, linh mục tìm những lối thoát không xứng đáng với chức vụ của mình. Đối với
người có tinh thần mạnh mẽ thì dễ mà gắt gao lên án những linh mục ấy, nhưng
tôi đã có dịp linh hướng cho họ và thấy họ là những linh mục tốt, là những
người thánh thiện, sống đàng hoàng và chuyên cần cầu nguyện dẫu gặp phải khó
khăn. Có lúc tôi muốn khuyên họ bỏ chức linh mục, nhưng tôi biết họ có ơn gọi
làm linh mục. Họ là những linh mục tốt và giáo dân cũng biết họ là những người
tốt. Ai cũng nhận thấy họ có ơn gọi làm linh mục nhưng không có ơn gọi sống độc
thân. Một vị chủ chăn tế nhị sẽ thấy rằng có cái gì sai. Tôi rất buồn khi thấy
các giám mục không dám đứng lên bênh vực cho các linh mục tốt này và để họ phải
bị đối xử cách bất công. Đó là một trong những bất công lớn của Giáo hội ngày
nay, cái lề lối đối xử với những linh mục chỉ mang một tội là lập gia đình. Khi
nghĩ đến hơn một trăm ngàn linh mục ở trong tình trạng này, thì thấy rõ ràng có
hai ơn gọi: Chúa Thánh Linh ban ơn gọi làm linh mục và ơn gọi sống độc thân cho
những ai ngài chọn. Đấy là một điều thật tốt đẹp. Nhưng nếu Chúa Thánh Linh
không ban ơn gọi sống độc thân, thì điều quan trọng là chúng ta phải tôn trọng
ý muốn của ngài, bằng không chúng ta có thể làm hại cho chức linh mục. Khi
chúng ta thấy có nhiều vị chủ chăn không tốt với con chiên bổn đạo và còn làm
cho họ đau khổ nữa, cũng như sống một đời sống không lành mạnh, chắc hẵn Vị Chủ
Chiên Lành phải đau lòng. Có thể chúng ta chọn lầm người lĩnh chức linh mục, vì
chúng ta không lắng nghe Chúa Thánh Linh cũng như không xem ngài hoạt động thế
nào nơi tâm hồn của mỗi người. Đức Giêsu có tuyên bố về việc độc thân. Ngài nói
một cách rất đơn giản, «Ai giữ được thì
hãy giữ.» Nếu chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu, chúng ta thấy ngài kêu gọi và bổ
nhiệm những người có gia đình làm môn đệ và cả đến làm giáo hoàng. Tôi cũng
hiểu rằng có nhiều vấn đề rất trầm trọng và nhiều gương mù do những giáo sĩ có
gia đình thuộc các tôn giáo khác, nhưng đó là một vấn đề khác. Nếu lời của Đức
Giêsu, «Ai giữ được thì hãy giữ,» có
một giá trị thần học nào, cũng như lời khuyến cáo của thánh Phaolô, «Người có đức tính tốt chỉ lập gia đình một
lần», có lẽ chúng ta phải định giá lại đường lối của chúng ta, bằng không
chúng ta sẽ chống lại Chúa Thánh Linh.
Điều
cần thiết đối với suy tư thần học là phải tìm xem Đức Giêsu muốn gì. Đấy chẳng
những là để làm cho tôn giáo được lành mạnh, nhưng cũng để ngăn chận những kẻ
quá sùng đạo đã tạo nên bao cuộc bách hại tôn giáo trong suốt lịch sử. Quả vậy,
tôn giáo đã gây ra bao nhiêu chiến tranh, bao nhiêu cuộc hành quyết, bao nhiêu
mạ lỵ cá nhân, cũng như bao nhiêu người đã bị lên án một cách nhỏ nhen, tất cả
đều được làm dưới danh nghĩa trung thành với Thiên Chúa và để bảo vệ tôn giáo
và đức tin của người ngay lành!
Tôi
tự hỏi không biết Thiên Chúa có câu nệ đến các khái niệm của chúng ta đặt ra
không, những khái niệm không bao giờ hoàn hảo cả! Làm sáng tỏ đức tin là điều
quan trọng, nhưng tôi yêu mến Thánh Lễ hơn là việc tìm hiểu mầu nhiệm này. Mỗi
người chúng ta phải cố gắng tìm hiểu Thiên Chúa muốn gì nơi Đức Giêsu, để giúp
chúng ta lớn lên mạnh mẽ trong tình yêu của ngài và mở rộng cái nhìn hẹp hòi
của những người được gọi là đạo đức. Nếu hiểu được Đức Giêsu muốn gì, chúng ta
sẽ thấy ngài muốn chúng ta kính sợ và tạ ơn mầu nhiệm Thánh lễ hơn là tìm cách
giải thích mầu nhiệm này. Cả đối với Đức Trinh Nữ Maria, tôi nghĩ rằng có lẽ
tốt hơn nên nhìn nhận địa vị cao cả của bà là Mẹ Đức Giêsu và Mẹ Thiên Chúa để
rồi thêm lòng kính yêu Mẹ, hơn là đặt cho Mẹ nhiều tước hiệu chỉ làm rối lòng
nhiều người, những tước hiệu mà chỉ những ai được học hỏi mới hiểu. Tôi chuyên
cần yêu mến Mẹ hơn là định nghĩa những tước hiệu gán cho Mẹ, nhất là khi những
tước hiệu này làm cho nhiều kẻ thành tâm phải xa lánh.
Đức
Giêsu luôn luôn lo lắng cho các môn đệ và những người kế vị các ông phải thi
hành quyền giáo huấn thế nào. Ngài chọn các ông và sai đi rao giảng và chữa
bệnh. Các ông rất lấy làm hãnh diện, và đó là điều tự nhiên vì được đại diện
cho một nhân vật quan trọng, làm sứ giả của ngài. Nhưng không lâu sau đó mỗi
người lại cảm thấy mình quan trọng hơn người khác. Khi Đức Giêsu nghe các ông
cãi nhau về vấn đề này, ngài bèn tế nhị lái các ông về chuyện khác.
Tuy
nhiên có một lần khi trở về sau một ngày truyền giáo, các ông phàn nàn với Đức
Giêsu rằng có một người lấy danh ngài mà trừ quỉ và các ông cũng đã cấm hắn
không được làm vì hắn không thuộc nhóm các ông. Điều này cũng dễ hiểu vì các
ông nghĩ rằng, «Đức Giêsu chọn chúng ta
làm việc này. Chúng ta có thẩm quyền. Người này là ai? Hắn không có quyền làm
việc này. Tại sao hắn cả gan làm công việc mà chỉ có chúng ta mới được phép làm?»
Do đó các ông cấm người ấy làm.
Đức
Giêsu bèn bảo các ông, «Đừng cấm hắn, vì
ai không nghịch với anh em là bạn của anh em.» Mặc dù Đức Giêsu ban quyền
rao truyền sứ điệp của ngài và chữa bệnh, nhưng không có nghĩa là ngài chỉ giới
hạn quyền hành cho một nhóm người được chọn cách đặt biệt. Đây là điều rất khó
mà chấp nhận đối với một số người, vì họ nghĩ rằng chỉ có công việc của họ mới
cứu rỗi dân chúng, bởi lẽ họ được chọn để mang lại sứ điệp chân thực của Thiên
Chúa. Đức Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng, «Dĩ nhiên là tôi chọn anh em để truyền đạt quyền bính, nhưng điều đó
không có nghĩa là tôi không được hoạt động qua những người khác. Nếu tôi có làm
thì cũng chẳng ăn nhập gì đến anh em. Tôi muốn dùng ai thì dùng. Anh em cứ
khiêm tốn làm công việc của mình và đừng đoán xét người khác»
Đức
Giêsu rất lo âu về thái độ của các môn đệ nghĩ họ là giới ưu tú. Những người
Pharisêu cũng khăng khăng nghĩ như vậy. Họ biết họ được Thiên Chúa chọn để dạy
dỗ dân chúng. Đức Giêsu cũng thừa nhận thẩm quyền của họ. «Anh em hãy làm những gì các kinh sư và những người Pharisêu dạy vì họ
ngồi trên ngai của Maisen (quyền hành của họ là do Thiên Chúa ban). Nhưng đừng
bắt chước họ, vị họ là những kẻ giả hình.» Đó là lời buộc tội rất nặng nề
đối với những người mà Cha của ngài đã chọn và ban sứ vụ dạy dỗ dân ngài! Họ đã
lạm dụng và làm đánh mất cái vui tươi và tự do mà Thiên Chúa ban cho dân ngài. Họ
đã khiến tôn giáo trở thành «một gánh
nặng không ai vác nổi». Họ kiểm soát chặt chẽ tư tưởng của dân chúng và dọa
Chúa phạt nếu bất tuân và bất tín.
Một
thí dụ nữa để nói rõ ai thuộc về gia đình của Đức Giêsu khi ngài nối vòng tay
tiếp đón những người Samaritanô. Họ bị người Do thái tuyệt thông. Mấy thế kỷ
trước họ đã bị khai trừ khi đoàn quân ngoại đạo đi ngang qua đất của họ. Nhiều
phụ nữ Samaritanô lấy lính ngoại đạo. Để trừng phạt họ, giới lãnh đạo tôn giáo
ở Giêrusalem phạt vạ tuyệt thông toàn thể quốc gia Samaritanô và cấm họ lên Đền
thờ Giêsusalem cầu nguyện. Người Do thái bị cấm liên lạc với người Samaritanô
dưới bất cứ hình thức nào. Vào năm 490 trước kỷ nguyên khi giới lưu vong quí
phái Giuđa trở về và xây dựng lại Đền thờ ở Giêrusalem, người Samaritanô có gửi
phái đoàn lên Giêrusalem xin đóng góp, nhưng họ bị nguyền rủa và đuổi về. Từ
đấy sinh ra mối hận thù giữa người Do thái và người Galilê đối với người
Samaritanô.
Đức
Giêsu xử sự thế nào trước hoàn cảnh này? Mặc dù giới lãnh đạo tôn giáo cấm
không ai được tiếp xúc với người Samaritanô, nhưng Đức Giêsu cứ đi vào vùng đất
của họ khi có dịp và còn làm bạn với họ nữa.
Câu
chuyện người Samaritanô tốt lành rất có ý nghĩa ở đây. Khi Đức Giêsu kể câu
chuyện người Samritanô làm phúc cho một lữ hành xấu số, rõ ràng là ngài muốn
cho thấy rằng mặc dù người Samaritanô thuộc thành phần bị người Dothái khai trừ,
nhưng Thiên Chúa không khai trừ anh mà anh còn được nêu lên làm gương mẫu.
Nếu
chúng ta muốn hiểu Đức Giêsu thì hãy tìm hiểu các câu chuyện Phúc âm. Trước
nhất, đạo Dothái là do Thiên Chúa ban. Thực vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể
ban cho con người một tôn giáo và dạy họ phải tôn thờ ngài thế nào. Thời Đức
Giêsu, Do thái giáo là tôn giáo chân thật. Các kinh sư và Pharisêu là những
người có thẩm quyền được Thiên Chúa ban cho. Trong những trường hợp thông
thường thì Đức Giêsu tuân phục quyền bính của họ. Tuy nhiên, ngài nhận thấy họ
không thi hành những điều Thiên Chúa muốn mà còn ngăn trở con người hiệp thông
với Cha của ngài. Ngài nhận thấy họ cắt đứt dân chúng với Thiên Chúa, và nỗi
khắt khe của họ làm cho dân chúng xa lánh, trong khi họ lại nghĩ rằng chỉ có tư
tưởng khắt khe của họ cũng như chính bản thân của họ mới làm đẹp lòng Thiên
Chúa. Đối với họ gia đình của Thiên Chúa chỉ gồm những ai thuộc về Do thái giáo.
Họ dành riêng ra một chỗ trong Đền thờ cho những người ngoại bang.
Các
ngôn sứ, đặc biệt là Isaia, đã cố gắng mở rộng cái nhìn về gia đình của Thiên
Chúa bị giới hạn trong sắc tộc và tôn giáo Dothái, nhưng các vị đã bị chống đối.
Những
hành động và ngôn từ của Đức Giêsu cho thấy rõ rằng Thiên Chúa không chấp nhận
lối suy tư thần học đó. Viễn tượng về gia đình của Thiên Chúa phải quảng đại
hơn. Trong câu chuyện người phụ nữ bên giếng nước và người Samaritanô tốt lành,
Đức Giêsu nhấn mạnh tư tưởng của ngài để cho thấy ai là người được Thiên Chúa
chấp nhận và được xem là phần tử của gia đình ngài. Các viên chức tôn giáo khai
trừ những ai không sống đúng lý tưởng của họ. «Tôi là Chủ Chiên lành. Tôi đi tìm chiên lạc, chiên bị tai nạn, bị
thương tích và khổ đau. Khi tìm được chúng, tôi sẽ vác chúng lên vai mà mang về
nhà.» «Về nhà là nơi chúng phải ở»,
Đức Giêsu nói.
Mặc
dù những người lãnh đạo tôn giáo khai trừ người Samaritanô, nhưng Đức Giêsu cho
thấy ngài chấp nhận người Samaritanô như là các phần tử của gia đình. Ngài đi
qua đất họ và rao giảng trong các phố phường của họ, cho thấy rằng ngài xem họ
như mọi người Do thái khác mặc dù ngài chỉ nhằm rao giảng cho người Do thái. Chỉ
về sau ngài mới ra lệnh cho các môn đệ rao giảng cho người ngoại bang.
Điều
này rất thích hợp cho ngày nay khi những người Kitô chia rẽ nhau vì tư tưởng
thần học khác nhau. Họ giống như các kinh sư và người Pharisêu mà nghĩ rằng chỉ
có tôn giáo của mình mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Tôi
biết đây là một cám dỗ lớn cho những người sùng đạo nghĩ rằng chân lý chỉ có
một.
Ngày
nọ tôi chứng kiến một tai nạn. Sau đó tôi đọc được năm bài tường thuật về biến
cố đó. Mỗi bài mô tả đúng các chi tiết, nhưng chỉ thuật lại những khía cạnh của
tai nạn đập vào mắt ký giả. Năm bài tường thuật cộng lại với nhau sẽ cho chúng
ta một hình ảnh khá đầy đủ. Nhưng nếu người nào cũng nói bài của mình là đúng
còn các bài kia là sai, thì xem ra quá lố bịch.
Con
người rất khác nhau. Làm linh mục, tôi có dịp gặp nhiều người có đời sống khác
nhau và rất phức tạp, thành thử tôi không dám phán đoán những gì mắt tôi xem
thấy. Tôi gặp một ông già theo đạo Do thái chính thống. Ông mới đọc xong quyển
Giôsê và mời tôi cùng ăn trưa với ông. Chúng tôi chuyện trò vui vẻ. Ông ta
thích đạo của ông và bảo tôi rằng ông thích Giêsu và ôm ấp hình ảnh Giêsu trong
lòng.
«Tôi luôn luôn nghĩ đến Giêsu và muốn giống
như ngài. Tuy nhiên đạo của chúng ta, đạo của tôi cũng như đạo của cha, đã làm
gì cho con người tốt đẹp ấy?» Ông này già lắm và cũng đau ốm nữa. Vài tuần
sau đó ông chết. Tôi thắc mắc Đức Giêsu có đón nhận ông như là một phần tử của
gia đình không, dù ông không biết những thủ tục để trở thành một người đăng ký
theo ngài.
Vào
một dịp khác, khi chị Dorothy và tôi diễn thuyết ở Thụy Sĩ, chúng tôi gặp một
người đàn bà trẻ tuổi, thông minh và nhiều nghị lực đi với chồng chị. Trong
buổi nói chuyện đầu tiên, chúng tôi diễn thuyết về Đức Giêsu. Chị chăm chú quan
sát và lắng nghe. Chị ở lại trọn ngày với chúng tôi, và khi có ai hỏi chúng tôi
nghĩ về Giêsu thế nào, chúng tôi dài dòng trả lời, nhưng chị cũng dừng lại chăm
chỉ nghe. Chị chăm chú nghe, xem như lòng chị được nung đốt. Tôi chưa bao giờ
thấy Chúa Thánh Linh hoạt động nơi ai như ở chị. Cả con người chị như một bóng
đèn vừa được vặn lên. Chồng của chị cũng là người Do thái như chị. Vài ngày sau
đó anh ta bình phẩm, «Tôi không biết cái
gì đã xảy đến với Jennifer, nhưng chưa bao giờ tôi thấy vợ tôi hạnh phúc, sống
động và bình an như vậy. Thật là tuyệt vời. Tôi học hỏi nơi vợ tôi nhiều lắm.»
Một
buổi chiều khi chúng tôi chuẩn bị dâng Thánh Lễ, Jennifer hỏi, «Tôi đến với Giêsu được không?» Chị dự lễ
với chúng tôi. Tôi dám nói là chị được đầy ơn Chúa Thánh Linh. Mặt chị sáng rỡ
và cả khi chị nhắm mắt con người chị cũng sáng rỡ. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe
nói chị có rước Mình Thánh, và những ai thấy chị lúc ấy cũng đều nói chị như
xuất thần. Tôi tự hỏi Đức Giêsu có xem chị là một phần tử của gia đình dẫu chị
chưa lãnh những nghi thức nhập giáo.
Một
người Hoa mà chúng tôi gặp ở Trung Hoa lúc trước có viết thư cho chúng tôi và
nói rằng ông vừa đọc xong quyển Giôsê. «Tôi
yêu mến Giôsê (Giêsu) và nghĩ đến ngài luôn. Ngài luôn ở với tôi và tôi học
cách ngài làm việc và đối xử với mọi người. Tôi cũng cầu Thượng đế mỗi ngày. Tôi
dạy Giôsê cho học trò của tôi. Chúng nó cũng thích Giôsê và muốn giống như
Giôsê.» Có thể phải nhiều năm nữa ông này mới gặp được ai giới thiệu ông
với một cộng đồng Kitô, nhưng Đức Giêsu có nghĩ rằng ông là phần tử của gia
đình ngài không?
Chúng
ta không khỏi thắc mắc Đức Giêsu phản ứng thế nào khi ngài đến các nhà thờ của
chúng ta ngày nay và khi những người Kitô thuộc nhiều giáo phái đến với ngài? Ngài
có tiếp đón một nhóm như là
của
riêng ngài và bỏ rơi các nhóm kia không? Giáo Hội là hiện thân của Đức Giêsu
trong suốt lịch sử, do đó dân chúng phải có cùng một kinh nghiệm khi tiếp xúc
chúng ta như khi họ tiếp xúc ngài. Đức Giêsu luôn luôn là Chủ Chăn tốt lành, ngài
niềm nỡ tiếp đón tất cả những ai đến với ngài. Giáo hội không nên làm khác hơn.
______________________
Comments
Post a Comment