02 Chương 2 - Lời tiên tri của Gioan Tẩy giả


Chương 2
Lời tiên tri của Gioan Tẩy giả

Bốn sách nhỏ mà chúng ta gọi là sách Phúc âm không phải là tiểu sử, và cũng không bao giờ có dụng ý như vậy. Mục đích của các sách này là để trình bày Đức Giêsu sao cho có ý nghĩa đối với dân chúng sống ngoài đất Palêtina một hay hai thế hệ sau Đức Giêsu. Thế hệ đầu tiên của những người Kitô không cảm thấy cần có một tiểu sử rõ ràng về Đức Giêsu. Họ chỉ muốn biết Giêsu có ý nghĩa gì với hoàn cảnh của họ đang sống ngoài đất Palêtina.
Ngày nay chúng ta cũng không cần có một tiểu sử của Đức Giêsu hơn thế hệ đầu tiên hay bất kỳ thế hệ nào. Cũng như họ, chúng ta chỉ cần có một quyển sách về Đức Giêsu để xem ngài có ý nghĩa gì cho hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Một danh sách các tên tuổi, địa thế hay ngày tháng thật ra không đủ để làm cho một nhân vật lịch sử sống động lại với thế hệ sau.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể làm cho Đức Giêsu sống động lại với chúng ta bằng cách mở bốn sách Phúc âm để xem Giêsu đã đem gì đến cho dân chúng Palêtina trong thời đại của ngài. Chúng ta không cần một tiểu sử, nhưng cần một lịch sử xác đáng về Đức Giêsu. Nếu chúng ta đọc kỹ ẩn ý của bốn sách Phúc âm và triệt để khai thác những tài liệu đang có về hoàn cảnh đương thời, chúng ta sẽ biết được lịch sử chính xác về Đức Giêsu. Điều này có thể làm được, bởi vì mặc dù các Phúc âm được viết một thế hệ sau Giêsu, nhưng các tác giả đã dùng những tài liệu thời Đức Giêsu và những người đương thời với ngài. Có nhiều chỗ trong Phúc âm chúng ta còn đọc được chính những lời Đức Giêsu nói và những công việc ngài làm. Nhưng điều quan trọng hơn là tìm xem Đức Giêsu muốn gì.
Nếu mục đích của chúng ta là tìm xem Đức Giêsu muốn thực hiện gì trong đời sống của ngài, có lẽ nên tìm xem những người đương thời với ngài sống và suy nghĩ thế nào, cũng như phản ứng của họ đối với ngài làm sao, hơn là biết chính xác những lời ngài nói và những việc ngài làm. Biết những lời nói và hành động của Giêsu chỉ có giá trị khi chúng giúp chúng ta khám phá ra dụng ý của ngài.
Đức Giêsu cố gắng thực hiện gì? Ngài hy vọng làm gì cho dân chúng mà ngài đang sống với trong thế kỷ thứ nhất ở Palêtina?
Một trong những phương cách để biết ý định của Đức Giêsu là tìm xem ngài quyết định và lựa chọn làm sao. Nếu chúng ta có thể tìm ra một biến cố lịch sử cho thấy Đức Giêsu chọn một trong hai quyết định, chúng ta sẽ thấy được manh mối ngài nghĩ thế nào. Điều này thấy ở phần đầu của các sách Phúc âm: Giêsu chịu để cho Gioan rửa.
Dù phép rửa đó có ý nghĩa gì đi nữa, một điều rõ rệt là Giêsu đứng chung hàng ngũ với Gioan Tẩy giả chứ không đứng chung với những phong trào đương thời. Nếu chúng ta hiểu được sự khác biệt giữa Gioan Tẩy giả và những người đương thời với ông, chúng ta sẽ thấy được Giêsu suy nghĩ thế nào. Sau đây là lịch sử của giai đoạn này.
Người Lamã thuộc địa hoá xứ Palêtina vào năm 63 trước Tây Lịch. Theo chính sách đặt quan cai trị người bản xứ, họ đặt Hêrốt làm vua người Dothái. Đức Giêsu sinh ra dưới thời Hêrốt, gọi là Hêrốt Cả. Năm 4 trước Tây lịch (theo sự tính toán hiện tại) Hêrốt chết và vương quốc của ông được chia cho ba con. Hêrốt Akêla cai trị xứ Giuđa và Samaria, Hêrốt Antipa xứ Galilê và Phêraê, và Hêrốt Philíp các miền phía bắc.
Akala không dẹp nổi xáo trộn trong dân chúng, vì thế người Lamã rất lo ngại và cuối cùng truất phế ông mà đặt một quan toàn quyền người Lamã cai trị xứ Giuđa và Samaria. Lúc bấy giờ Giêsu độ 12 tuổi. Người Lamã bắt đầu cai trị trực tiếp. Đó là khởi đầu giai đoạn chót và rối loạn lớn trong lịch sử quốc gia Dothái. Giai đoạn này kết thúc khi người Lamã tàn phá đền thờ, thị trấn và quốc gia Dothái vào năm 70 Tây Lịch. Cuộc tàn phá toàn diện cuối cùng xảy ra vào năm 135 Tây Lịch. Đấy là giai đoạn Giêsu sống và chết và cũng là lúc mà những cộng đoàn Kitô đầu tiên phải di cư.
Nổi loạn bùng nổ ở đầu giai đoạn này. Lý do là thuế má. Người Lamã kiểm tra dân số và tài nguyên để đánh thuế. Dân Do thái phản đối vì lý do tôn giáo và nổi dậy bạo động. Lãnh tụ quân phản loạn là Giuđa người Galilê. Ông tổ chức một phong trào tranh đấu cho tự do dựa trên tinh thần tôn giáo.
Người Lamã dẹp ngay phong trào này, và để cảnh cáo, họ đóng đinh thập tự hơn hai ngàn quân phiến loạn. Nhưng phong trào này vẫn tiếp tục hoạt động. Người Do thái gọi những người của phong trào là Dêlốt; còn người Lamã gọi họ là quân cướp. Dĩ nhiên đây là một phong trào hoạt động chìm, có một lối tổ chức không chặt chẽ, có khi hoạt động từng nhóm và có khi họp nhau lại, như nhóm Sicari chuyên về ám sát. Có người nhập bọn vì thích đánh nhau, nhưng cũng có người gia nhập vì lý do tôn giáo mặc dù biết rằng mình có thể bị tra tấn hay bị đóng đanh. Trong sáu mươi năm trời họ quấy phá quân đội viễn chinh Lamã, thỉnh thoáng nổi dậy đánh phá hay đánh du kích. Từ một nhóm phản loạn họ thành lập một đoàn quân cách mạng. Rồi vào năm 66 Tây lịch, khoảng 30 năm sau khi Đức Giêsu chết, với sự hổ trợ của dân chúng họ lật đổ người Lamã và nắm chính quyền. Nhưng bốn năm sau Lamã gửi một quân đội thật hùng mạnh đến tiêu diệt họ. Đấy là một cuộc tàn sát rất tàn nhẫn. Nhóm cách mạng cuối cùng tử thủ đồn Masađa chống lại quân đội Lamã cho đến năm 73 Tây lịch. Cuối cùng độ một ngàn người tự sát chứ không muốn bị bắt.
Phong trào Dêlốt là một phong trào tôn giáo. Thời đó hầu hết người Dothái ở Palêtina tin rằng Israel là một chế độ thần quyền, họ tin rằng họ là một quốc gia được Thiên Chúa chọn, Thiên Chúa là vua, là chủ tể và là Chủ của họ; đất đai cũng như tài nguyên đất nước chỉ thuộc về Thiên Chúa. Chấp nhận Lamã làm chủ là một hành động phản bội Thiên Chúa. Nạp thuế cho vua Xêda là nạp cho Xêda những gì thuộc về Thiên Chúa. Nhóm Dêlốt là những người Dothái trung thành, nhiệt tâm với lề luật và tôn trọng Thiên Chúa là Vua, là Chủ tể.
Nhóm Pharisêu không chống lại nhóm Dêlốt trong vấn đề này. Sáu ngàn người Pharisêu không chịu ký trung thành với vua Xêda. Người Lamã cũng phải bãi bỏ luật lệ này đối với công dân Dothái. Nhưng phần đông người Pharisêu không cảm thấy cần phải vũ trang để chống lại người Lamã, có lẽ họ thấy phần thiệt thòi sẽ về phía họ. Điều họ quan tâm nhất là cải tổ nước Israel. Thiên Chúa để họ phải bị người Lamã thống trị là vì họ không trung thành với lề luật và truyền thống của cha ông.
Người Pharisiêu miễn cưỡng nạp thuế cho Lamã, nhưng họ xa tránh những người không tuân giữ lề luật và truyền thống. Họ thành lập một nhóm riêng gọi là thiểu số trung kiên của Israel. Tên Pharisêu có nghĩa là «nhóm riêng», nghĩa là những người thánh thiện, là cộng đoàn đích thực của Israel. Luân lý của họ là luật pháp theo nguyên tắc thưởng phạt. Thiên Chúa yêu thương và ban thưởng những ai tuân giữ lề luật và gia phạt những ai không tuân giữ. Người Pharisêu tin có sự sống đời sau, tin người chết sẽ sống lại và tin rằng trong tương lai Thiên Chúa sẽ gửi đến một vị cứu tinh để giải phóng họ khỏi tay Lamã.
Nhóm Ếtsên còn đi xa hơn nữa để trở nên toàn hảo. Nhiều người bỏ thế tục, sống độc thân và khổ hạnh trong những lều ở sa mạc. Họ còn nhiệm nhặt hơn người Pharisêu trong vấn đề sắc dục, họ sợ bị thế giới gian tà và ô uế làm uế nhiễm. Hàng ngày họ tuân giữ một cách nhiệm nhặt những nghi thức tẩy rửa mà các giáo sĩ phải làm trước khi dâng hiến của lễ trong Đền thờ.
Những người Ếtsên không thừa nhận những ai không thuộc nhóm của họ. Giới giáo sĩ trong Đền thờ bị họ xem là thối nát. Còn những người ngoài nhóm là «con cái sự tối». Yêu thương và kính trọng chỉ dành cho thành viên trong nhóm - họ là «con cái sự sáng». Chỉ họ mới là thiểu số trung kiên của Israel.
Họ xa lìa xã hội và nghiêm giữ lề luật vì nghĩ rằng ngày tận thế sắp đến. Họ chuẩn bị đón tiếp một vị Cứu tinh (hay có lẽ là hai vị) và chuẩn bị một cuộc chiến mà ‘con cái sự sáng’ sẽ tiêu diệt ‘con cái sự tối’ là quân đội của Satan. Người Lamã là ‘con cái sự tối’ đầu tiên sẽ bị hủy diệt.
Người Ếtsên cũng hiếu chiến như người Dêlốt, nhưng họ nghĩ rằng thời lúc chưa đến. Họ phải chờ đợi ngày của Thiên Chúa. Vào khoảng năm 66 Tây lịch, khi người Dêlốt nổi dậy lật đổ người Lamã, thì hình như nhóm Ếtsên cũng tham gia, nhưng sau đó tất cả cùng bị tiêu diệt.
Trong cảnh lòng đạo hăng say này, người Sađuxê là nhóm bảo thủ nhất. Họ bám lấy những truyền thống Hêbru cổ xưa và chống lại những cái mới lạ về tín ngưỡng và nghi thức. Sự sống đời sau và việc người chết sống lại bị xem là những cái mới lạ. Thưởng phạt chỉ có ở đời này. Nhóm Sađuxê xem ra thực tế hơn. Họ hợp tác với người Lamã và nỗ lực duy trì tình trạng hiện tại
Cách chung, người Sađuxê thuộc giai cấp quí phái giàu có gồm các giáo sĩ trưởng và các vị trùm trưởng. Các giáo sĩ trưởng là một giai cấp đặt biệt. Không những họ làm việc tế tự như các giáo sĩ khác, nhưng họ cũng còn phụ trách tổ chức và quản trị Đền thờ. Giai cấp giáo sĩ là do cha truyền con nối.
Các vị kỳ lão là giai cấp quí phái trong dân gian, họ là những gia đình quí tộc thâm niên làm chủ hầu hết đất đai.
Nhóm Sađuxê cũng gồm một số kinh sư hay giáo sĩ, tuy đa số thuộc nhóm Pharisêu. Những kinh sư và giáo sĩ là những người học thức. Họ cũng là những thần học gia, luật sư và giáo sư nhưng không phải là giáo sĩ. Như vậy trong các sách Phúc âm người Sađuxê thường gọi là «giáo sĩ trưởng, kỳ lão và kinh sư» hoặc là «các vị lãnh đạo dân chúng». Họ thuộc giai cấp thượng lưu, giai cấp cầm quyền.
Cũng cần nhắc đến một nhóm văn sĩ nhỏ vô danh viết một loại văn tự mà ngày nay chúng ta gọi là khải huyền. Họ là những người thấy xa, tin rằng những bí mật của Thiên Chúa về lịch sử và nhất là về ngày tận thế đã được tiết lộ cho họ. Theo họ, Thiên Chúa đã tiền định mọi thời gian và mọi thời đại, ngài đã tiết lộ những chương trình bí mật cho những người thời xưa như Ênóc, Nôe, Êra, Abraham,và Maisen. Những văn sĩ khải huyền nghĩ rằng mình biết được những bí mật này nên viết ra cho những học giả đương thời biết với.
Những văn sĩ này có thể là những kinh sư, hoặc thuộc về nhóm Pharisêu hay Étsên, nhưng không chắc lắm. Họ là những người vô danh và ngày nay vẫn còn vô danh.
Giữa những phong trào và suy đoán có tính cách tôn giáo chính trị này xuất hiện một nhân vật rất mâu thuẩn, đó là Gioan Tẩy giả. Ông khác lắm vì ông là một ngôn sứ, và đúng thế, ông là một ngôn sứ tiên báo về bất hạnh và đổ nát, giống như các ngôn sứ tiền bối của ông. Bên ngoài ông có vẻ giống như những người Ếtsên hay các văn sĩ khải huyền, nhưng đừng quên rằng ông khác với những người đương thời, vì một vị ngôn sứ bao giờ cũng khác người. Trong khi dân chúng mong đợi một ngày mà dân Israel sẽ chiến thắng kẻ thù, thì Gioan lại tiên đoán Israel sẽ bị bất hạnh và sẽ bị hủy diệt.
Từ lâu không có lấy một ngôn sứ tri ở Israel. Ai ai cũng ao ước có ngôn sứ, như văn chương thời đại chứng minh. Hình như dòng ngôn sứ đã tắt nghẽn. Thiên Chúa trở nên câm lặng. Người ta chỉ nghe tiếng vang của ngài. Người ta có cảm tưởng rằng một số quyết định đã bị đình hoãn «cho đến ngày có được một vị ngôn sứ đáng giá» (1 Mc 14:41; 4:45-46).
Gioan Tẩy giả phá tan cái thinh lặng này trong hoang địa. Lối sống, cách nói và sứ điệp của ông đi theo truyền thống các ngôn sứ thời xưa. Những bằng chứng chúng ta có về ông, cả trong các sách Phúc âm hay ở những nơi khác, đều đồng ý về điểm này.
Sứ điệp của Gioan hết sức là đơn giản. Thượng đế đang giận dân ngài và quyết định trừng phạt họ. Thiên Chúa sắp can thiệp vào lịch sử để lên án và tiêu diệt dân Israel. Gioan mô tả sự hủy diệt này như một cơn cháy rừng lớn mà rắn rết cũng phải bỏ chạy (Mt 3:8), cây cối sẽ bị thiêu rụi (Mt 3:10-12) và dân chúng sẽ bị nướng chín (Mt 3:11). Ông cũng dùng ẩn dụ cái rìu và cái nia. Đây là những lối nói ẩn dụ của các ngôn sứ. Lối dùng ẩn dụ này không giống với những hình ảnh của các văn sĩ khải huyền. Không có lý do gì để nghĩ rằng Gioan ám chỉ hoả ngục đời sau hoặc là một biến động hoàn vũ. Lửa rừng là một hình ảnh của địa ngục trần gian. Theo Gioan, án lệnh nặng nề của Thiên Chúa trên Israel sẽ do một người thi hành. Gioan nói về con người này là «một người sẽ đến» (Mt 3:11; Mt 11:3). Con người này hiện đang sẵn sàng rìu, nia trong tay. «Ông ta sẽ rửa các người ... bằng lửa» (Mt 3:11).
Lời tiên tri không phải là lời tiên đoán, nhưng là một lời cảnh cáo hay lời hứa. Vị ngôn sứ cảnh cáo Israel về án phạt của Thiên Chúa và hứa với họ ơn cứu độ của ngài. Lời cảnh cáo và hứa hẹn đi kèm với điều kiện, tuỳ theo sự đáp ứng tự do của dân chúng. Nếu dân Israel không thay đổi thì hậu quả sẽ rất khủng khiếp. Nếu dân Israel chịu thay đổi, họ sẽ được nhiều ân lành. Ý định thực tế của lời tiên tri là thuyết phục dân chúng thay đổi hay hối cải. Tất cả mọi vị ngôn sứ đều kêu gọi hoán cải.
Khác với những người đương thời không phải là ngôn sứ, Gioan cảnh cáo và kêu gọi mọi người Israel. Đừng nghĩ rằng chỉ những người ngoại giáo mới sẽ bị hủy diệt, còn con cái Abraham sẽ được khoan dung nhờ có tổ tiên và nòi giống. «Đừng nghĩ rằng ‘Chúng ta có tổ phụ Abraham’, bởi vì tôi nói cho các người hay, Thiên Chúa có thể biến những hòn đá này thành con cái Abraham» (Mt 3:9). Thiên Chúa có thể hủy diệt Israel và lập một dân tộc mới làm con cái Abraham, nếu Israel không thay đổi.
Gioan kêu gọi những người tội lỗi, đĩ điếm, những người thu thuế và lính tráng cũng như các kinh sư và Pharisêu (Lk 3:12, 14; Mt 21:32). Ông còn dám thách thức vua Dothái là Hêrốt Antipa (Mc 6:18; Lc 3:18). Ông không phải chỉ kêu gọi một nhóm nhỏ hay thành lập một Ổgiáo pháiỖ. Tất cả mọi người phải thay đổi.
Những vị ngôn sứ tiền nhiệm khi kêu gọi Israel thay đổi thường nhắm đến vua hay lãnh tụ. Còn Gioan thì giống như các ngôn sứ gần ông hơn, ông kêu gọi mỗi cá nhân ở Israel phải hối cải và thay đổi lòng dạ. Đó là ý nghĩa căn bản của phép rửa của Gioan. Điều kiện để nhận nghi thức này không quan trọng. Điều quan trọng là Gioan đã dùng nghi thức này. Phép rửa của Gioan đánh dấu một tâm hồn hối cải. «Họ thú tội» và chịu rửa (Mc 1:5).
Phép rửa này được xem như để ban ơn tha tội (Mc 1:4). Trong bối cảnh lúc bấy giờ thì được tha tội có nghĩa là sẽ khỏi bị phạt. Nếu toàn thể Israel hay đa số con cái Abraham chịu hối cải, Thiên Chúa sẽ nguôi giận và tai ương sẽ không xảy đến. Nhưng không biết cá nhân những người chịu rửa có được cứu không, nếu tai ương xảy ra? Cái đó tùy theo Gioan nghĩ đến loại tai ương nào. Chiến tranh chăng? Thường thì các ngôn sứ nghĩ đến tai ương chiến tranh mà Israel bị đánh bại. Những người vô tội thường cũng không thoát được. Tuy nhiên chúng ta không có đủ bằng chứng để biết Gioan nghĩ thế nào, hoặc là ông có nghĩ hay không nghĩ về vấn đề này.
Một điều quan trọng nữa là khi Gioan kêu gọi thay đổi, ông không nhắm vào nghi thức thanh tẩy hay những việc vụn vặt như giữ ngày Sabát hoặc đóng thuế cho người ngoại giáo. Điều Gioan kêu gọi là luân lý xã hội.
«Nếu ai có hai áo choàng thì phải chia với người không có, và ai có ăn cũng phải làm như vậy...»
Với người thu thuế ông bảo , «Đừng đòi quá mức ấn định!»...
Với binh sĩ ông bảo, «Đừng hà hiếp! Đừng bốc lột! Phải an phận với đồng lương của mình!» (Lc 3:11-14)
Gioan công kích vua Hêrốt ly dị vợ mà lấy vợ của em và làm những tội ác khác (Lc 3:19). Nhưng theo sử gia đương thời là Giôsêphu thì Hêrốt bắt giam Gioan vì lý do chính trị. Ông sợ Gioan xúi giục dân chúng chống lại ông. Hêrốt phải được lòng dân chúng, nhất là về vấn đề chính trị liên quan đến việc tái hôn của ông. Để cưới bà Hêrôdia bắt buộc ông phải ly dị vợ là con gái của Arêta II đang cai trị nước lân cận Nabatan. Đây chẳng những là một điều sỉ nhục cá nhân, nhưng là một hành động phá đổ liên minh chính trị. Xứ Nabatan liền chuẩn bị chiến tranh. Đối với Hêrốt Gioan chỉ làm cho vấn đề thêm trầm trọng khi ông công kích việc ly dị và tái hôn của nhà vua và còn nói Thiên Chúa sẽ trừng phạt. Ít năm sau đó xứ Nabatan tấn công và đánh bại Hêrốt. Ông bèn cầu cứu Lamã đến giúp ông và xứ sở của ông.
Gioan bị bắt giữ và bị xử trảm vì đã dám lên tiếng chống lại Hêrốt.
Gioan Tẩy giả là người duy nhấy trong xã hội thời bấy giờ mà Đức Giêsu thán phục. Đây là tiếng gọi của Thiên Chúa cảnh cáo dân chúng về một tai ương rất gần và kêu gọi dân chúng hãy thay đổi lòng dạ. Giêsu tin điều đó và nhập với những người quyết tâm làm một cái gì để đáp lại lời kêu gọi đó. Ngài chịu để Gioan rửa.
Đức Giêsu có thể không đồng ý với Gioan trong mọi chi tiết. Sau đó, như chúng ta sẽ thấy, ngài hành động khác với Gioan. Tuy nhiên việc ngài chịu để Gioan rửa là chứng cớ rõ ràng ngài chấp nhận căn bản lời tiên tri của Gioan: đó là Israel đang lao đầu vào một tai ương vô tiền khoáng hậu. Chấp nhận lời tiên tri này, tất nhiên Giêsu tỏ ra mình không đồng ý với những người từ chối Gioan và phép rửa của ông: đó là những người Dêlốt, Pharisêu, Ếtsên, Sađuxê, kinh sư và các văn sĩ khải huyền. Không ai trong các nhóm này tin ở một ngôn sứ nguyền rủa cả dân tộc Israel giống như các ngôn sứ ngày xưa đã làm.
Vì thế Giêsu bắt đầu loan báo Israel ngày gần đây sẽ bị án phạt, sẽ bị một tai ương chưa từng thấy. Có nhiều bằng chứng để cho thấy Giêsu lập lại nhiều lần lời tiên tri này trong suốt đời ngài. Thực vậy, trong những bản văn chúng ta có được, Đức Giêsu còn nói rõ ràng hơn cả Gioan về tai ương sắp đến. Đây chỉ xin trích ra ít đoạn.
«Sẽ đến ngày quân thù đắp lũy chung quanh ngươi, bao vây và công hãm ngươi mọi mặt; chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái ngươi xuống đất bên trong thành lũy của ngươi; chúng sẽ không để hòn đá nào nằm trên hòn đá nào - tất cả chỉ vì ngươi không nhận ra cơ hội mà Thiên Chúa ban cho» (Lc 19:43-44)
Đức Giêsu nói: «Hỡi các nử tì Giêrusalem, đừng có khóc cho tôi; hãy khóc cho các người và con cái các người» (lc 23:28)
«Dân chúng kể lại cho Giêsu nghe chuyện Philatô giết những người Galilê mà lấy máu hoà với vật tế của họ... Ngài nói “Nếu các người không hối cải thì cũng sẽ bị tàn sát như họ”»
Điều ám chỉ ở đây thật quá rõ ràng: đó là Giêrusalem sẽ bị tàn phá trong chiến tranh với Lamã. Cùng một lối văn tự tiên tri, Giêsu báo trước một cuộc bại trận kinh hoàng chưa từng thấy. Án phạt của Thiên Chúa là một cuộc tàn sát ghê gớm, và những người thi hành án phạt này là người Lamã. Chỉ có những ai biết chạy trốn mới thoát nạn (Mc 13:14). Đó là việc đã xảy ra vào năm 70 Tây lịch.
Phần đông học giả không mấy để ý đến những bản văn này hay những bản văn tương tự (Mc 13:2; 23:37-39 = Lc 13:34-35; Lc 11:49-51; 17:26-37). Họ nghĩ rằng những bản văn này đã được thêm vào sau khi biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên những sưu tầm gần đây cho thấy không phải vậy.
Học giả C.H. Dodd là người đầu tiên dẫn chứng rằng các bản văn này không thể viết sau biến cố, bởi vì chúng được mô phỏng theo những quy chiếu của Thánh Kinh tới sự sụp đổ của Giêsusalem năm 586 trước Tây lịch, và chúng cũng không ám chỉ đến những nét đặc biệt của sự sụp đổ năm 70. Lloyd Gaston cũng kết luận
như thế. Ông bỏ ra tám năm để suy tầm vấn đề này và đã phát hành một quyển sách rất dày và uyên thâm với lý lẽ xác đáng, mặc dù ít người biết đến và đọc nó.
Chắc chắn là Đức Giêsu đã tiên tri ngày Giêrusalem bị Lamã tàn phá. Những người Kitô đầu tiên có thể thay đổi ít nhiều ngôn từ của Giêsu, nhưng việc làm này phải xảy ra trước biến cố năm 70. Chính Gioan Tẩy giả là người đầu tiên thấy trước tai ương này, mặc dù chúng ta không biết ông dự kiến nó thế nào. Giêsu đồng ý với Gioan. Ngài đọc được những dấu hiệu của thời đại và thấy rõ rằng Israel đang đụng độ với Lamã. Cả Giêsu lẫn Gioan, giống như các ngôn sứ thời Cựu Ước, diễn tả tai ương sắp xảy ra này là án phạt của Thiên Chúa.
Nghĩ đến tai ương này làm cho Giêsu phải khóc (Lc 19:41) cũng như nó đã làm cho tiên tri Giêrêmi khóc khi xưa. Nhưng ngài phải làm gì bây giờ ?


__________________________________

Chương trước (01) <=> Chương sau (03)



Comments

Popular posts from this blog

Chân Dung Đức Giêsu (Lm Jos. F. Girzone)

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Cốt tuỷ chung của các tôn giáo