Ðức Giêsu đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo
Ðức Giêsu đến để thực
hiện
một cuộc cách mạng tôn giáo
1. Thắc mắc của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy Giả là người
được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để dọn đường
cho Ðấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một
cách hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những sai trái của
chính quyền đương thời là vua Hêrốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt vọng trong tù
dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gioan vào Ðức Giêsu phần
nào bị thử thách, cụ thể như đoạn Tin Mừng Mt 11:2-6.
Có thể lúc đó ông tự
hỏi: Nếu Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài, thì tại
sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Ðấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên
Chúa phải để ông ở ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông
sẽ phải là cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm như mọi
người Do Thái khác rằng Ðấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành
một vị Hoàng Ðế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt mà ông vẫn
còn phải ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn đệ của ông
đến gặp Ðức Giêsu để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
● Mt 11:2-6 => «Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Ðức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Ðấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Ðức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”.»
2. Những điều ứng nghiệm nơi Ðức Giêsu, Ðấng Cứu Thế
Ðức Giêsu đã không trả
lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Ðấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián
tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ Isaia đã tiên báo
về thời đại của Ðấng Cứu Thế: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được
sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1*). Ðó là những điều mà Ðức Giêsu đã dùng quyền năng của mình
thực hiện trước mắt mọi người.
● Is 26,19 => «Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ
sẽ đứng lên. Này những kẻ nằm trong bụi đất, hãy trỗi dậy, hãy reo mừng! Vì lạy
Chúa, sương Ngài ban là sương ánh sáng, và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh».
● Is 29,18-19 => «Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời
trong sách, mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy. Nhờ
Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Ítraen,
những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng».
● Is 35,5-6a => «Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc
nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò».
● Is 61,1 => «Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự
trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ
nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam
cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân».
Thử đặt mình vào địa vị
Gioan Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài là Ðấng Cứu
Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước Do Thái
bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại trước
mắt, Ngài chỉ là một thầy giảng đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao tin
được Ngài là Ðấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như một
tội nhân? Vì nghĩ như thế nên Giuđa ─ một môn đệ của Ngài có khuynh hướng yêu nước
và mong chờ Ngài trở thành một lãnh tụ chính trị giải phóng dân tộc Do Thái khỏi
ách thống trị của đế quốc Rôma ─ đã phản bội Ngài.
Chính vì thế, khi trả lời
cho môn đệ của Gioan Tẩy giả, Ngài đã nói: «Phúc thay người nào không vấp
ngã vì tôi» (Mt 11,6). Liệu câu nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại
không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta
vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng
theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ đến như kẻ trộm đâu còn
đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì Ngài.
3. Ðức Giêsu đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo
Tôi e rằng khi Ngài đến
lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần Ngài đến
trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt tư tưởng
và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn luôn
tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo - vốn là phương tiện phục vụ con
người, dẫn con người đến với Thiên Chúa - cũng phải thay đổi theo để phục vụ
con người một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang
thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật
hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những
chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan
niệm tôn giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan
niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo
không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. «Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư» (Lc
5,37). Ðương nhiên trong tôn giáo có những
điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được, nhưng có biết bao điều có thể thay
đổi và phải thay đổi. Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và
cái nào là cốt lõi không thể thay đổi được.
Tôn giáo và luật lệ của
tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do Thiên Chúa
thiết lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc nịch trong
Kinh Thánh (*chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14;
32,13b; Ðnl 29,28; 1 V 8,13 và vô số câu khác).
● St 9,12 => «Thiên Chúa phán: “Đây là dấu hiệu giao ước
Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn
thế hệ mai sau”».
● Xh 12,14 => «Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng
niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ
này: đó là luật quy định cho đến muôn đời».
● Xh 32,13b => «Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các
vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ
ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ
được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời».
● Ðnl 29,28 => «Có những điều Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta,
giữ kín cho mình; nhưng những điều này được mặc khải cho chúng ta và con cháu
chúng ta đến muôn đời, để chúng ta đem ra thực hành những lời của Luật này».
● 1 V 8,13 => «Con đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang.
Một nơi để Ngài ngự muôn đời».
Vậy thì con người nào
ai dám thay đổi? Chỉ có những Ðấng Thiên Sai như Ðức Giêsu mới có thể làm
chuyện ấy. Chính Ðức Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo.
Và cũng chính vì làm cuộc cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh
đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, vô số người đã vì Ngài mà vấp ngã!
4. Cuộc cách mạng tôn giáo của Ðức Giêsu
Tôn giáo Do Thái do
Thiên Chúa thiết lập nhưng do Môsê hình thành. Những luật lệ do Môsê ban hành
đã được người Do Thái thời ấy coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là
luật của Thiên Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và
tâm linh của dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi
của dân chúng. Tương tự như khi con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt
thì không thể chỉ dùng lời khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được.
Lời khuyên hay mệnh lệnh phải đi đôi với hình phạt. Ðối với một đứa trẻ, chỉ
cần nó sợ hình phạt để làm theo những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu
cầu, và chỉ cần như thế nó đã được coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu
Ước ứng với phương pháp giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự
ý thức, hiểu biết, hay tình yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công
chính vào thời này là chỉ cần giữ luật cho đúng là được. Và người Pharisiêu
thời Ðức Giêsu −nếu không có tính giả hình để được mọi người ca tụng và kính
trọng− thì họ chính là mẫu người được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không
ai còn có thể giữ luật trọn vẹn hơn họ!
Nhưng từ Môsê đến Ðức
Giêsu, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm linh
của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là trẻ con của họ để
bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi để
thích hợp với trình độ mới của họ, và chính Ðức Giêsu là người có sứ mạng thực
hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ hãi nữa,
mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại lúc này được so
sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ không còn giáo dục
anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý thức tự giác và tình
yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha mẹ phạt, thì anh
không còn được coi là tốt, là trưởng thành, mà phải do một động lực khác thúc
đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai của mình, do biết yêu thương và
làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc, biết hy sinh cho quê
hương tổ quốc. Vì thế, cách sống hay giữ đạo vị luật thiếu tình yêu bên trong
của người Pharisiêu không còn được Ðức Giêsu coi là công chính nữa: «Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20).
Những cuộc cách mạng vĩ
đại về tôn giáo như Ðức Giêsu đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng bị
những người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn chấp
vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ nhỏ, và
được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những chân lý
ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Đức Giêsu đưa ra những quan niệm
mới, nguyên tắc mới.
Ðể nói lên sự ưu việt
của thời hậu cách mạng do Ðức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển hình: «Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông» (Mt 11,11). Gioan Tẩy Giả là mẫu người công chính của Cựu Ước, sự công
chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tân Ước được.
Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gioan Tẩy giả và Ðức Giêsu,
giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Ðiển hình như: «Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Ðức Giêsu rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”» (Mt 9,14; Mc 2,18).
Khi Đức Giêsu đến lần thứ hai, liệu chúng ta có hỏi Ngài và các môn đệ Ngài «Tại sao chúng tôi làm điều này điều nọ, mà ông và các môn đệ của ông lại không làm?» chăng?
Vậy, chúng ta hãy tỉnh
táo để khi Ðức Giêsu đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước được,
chúng ta không vấp phạm vì Ngài: «Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi» (Mt 11,6).
Nguyễn
Chính Kết
Comments
Post a Comment