Tiếng réo gọi hợp tác xây dựng hòa bình của Thánh kinh Hồi giáo
TIẾNG RÉO GỌI
HỢP TÁC XÂY DỰNG HÒA BÌNH CỦA THÁNH KINH HỒI GIÁO TRƯỚC LÀN SÓNG TÔN GIÁO CUỒNG TÍN ĐANG CỔ SÚY HẬN
THÙ BẠO LỰC KHẮP NƠI
Nguyễn Anh Tuấn Political Scientist
I. TẤT CẢ VẤN NẠN CỦA THẾ GIỚI PHÁT
SINH TỪ CON NGƯỜI.
Trong tiến trình toàn cầu hóa để sắp xếp lại trật tự mới
cho NGÔI LÀNG TOÀN CẦU để cả gia đình nhân loại cùng nhau tiến vào thế kỷ XXI –
nhưng tiến về tất cả những khó khăn và trở ngại cũng như những vấn nạn tràn
ngập về tôn giáo, văn hóa, chính trị, luật pháp, tài chánh và đặc biệt là những
nhóm Hồi giáo cuồng tín (Extremist Fundamentalism) đang cổ súy bạo lực, hận thù
ngùn ngụt khắp nơi. Tuy nhiên, Thánh Kinh Hồi giáo Qur’an trong phần giới thiệu
và giải thích như sau: “Những vấn đề quốc gia, xã hội và quốc tế thường thường
chỉ là những vấn đề riêng tư của một con người mở rộng ra trên một tầm vóc lớn
hơn, vấn đề chủng tộc, màu da khởi đầu từ một lý do đơn giản là con người khinh
rẻ không biết kính trọng lẫn nhau. Những vấn nạn đối với các thành phần lao
động phát sinh từ sự bất công, hoặc từ những thái độ của cá nhân con người đối
xử tệ bạc với người khác. Những xâu xé xung đột trong khung cảnh quốc tế khởi
đi từ những gian tham vô độ của một số lãnh tụ quốc gia hoặc những ghen ghét
hận thù để bảo vệ ích kỷ cho riêng họ đã chia rẽ con người. Hận thù khởi đi từ
những cá nhân là người hay ôm ấp hận thù. Vì thế những ưu tư lo lắng của xã
hội, trước hết là những vấn đề riêng tư của mỗi con người”.
Trong những hoàn cảnh rắc rối và khó khăn đó, đòi hỏi phải
có chuyên gia, những suy nghĩ thật vững chắc và những kế hoạch hành động theo
tinh thần Thánh Kinh Hồi giáo đã chỉ dẫn một đường lối và một lực lượng cho
những hoàn cảnh hiện nay. Chúng ta cần có những con người thông minh, sáng
suốt, biết sử dụng sự thông minh, khôn ngoan và sáng suốt để biến đời sống
thành một khung cảnh sáng tạo, cảm thông, thánh thiện đúng như tinh thần của
Thánh Kinh Qur’an. Tuy nhiên cả Thế giới đang sống trong một tiến trình tiến
hóa.
Vấn nạn thực sự vẫn là con người – đó là con người vẫn
bị thống trị bởi những ham muốn của bản năng đầy thú tính (animal appetite) của
con người- hoặc nếu những con người như thế nắm giữ quyền kiểm soát và giữ họ
trong vòng kiểm soát của thú tính.
Con người có những tiến bộ về khoa học nhưng khoa học có
khả năng vượt qua và vượt lên trên những đam mê mù quáng đó không, hoặc họ vẫn
bị bàn tay của satan kềm chế với những đam mê đầy tội lỗi”.
Ngoài ra Thánh Kinh Qur’an muốn hướng dẫn con người đi từ
đời sống đầy tội lỗi để đi đến một đời sống trong sạch thánh thiện (a pure
life). Vì thế Thánh Kinh Qur’an dạy rằng: “Người nào thanh lọc tẩy rửa tâm
hồn (Purification) của họ thì họ sẽ đạt được mục tiêu tối hậu của đời sống và
nếu không họ sẽ thành hư hỏng, đồi trụy đời sống của họ.” Như thế, chỉ cần
trích dẫn vài dòng trong Thánh Kinh Hồi giáo cũng đủ để cho chúng ta hiểu được
đâu là vấn nạn của thế giới con người và đâu là phương cách để giải trừ vấn nạn
đó. Nếu chúng ta thực tâm tìm kiếm những lời dạy trong Thánh Kinh- mà không
phải từ sự diễn dịch bởi những người chưa trưởng thành, chín chắn trong đời
sống tâm linh và tinh thần của chính họ- mà phải tìm kiếm nơi chính
giáo (True Religion) của tất cả sáu chính giáo trong sáu nền Văn minh Tinh thần
(Spiritual Civilization) của toàn thể nhân loại như Do Thái giáo, Kito giáo,
Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và Khổng giáo. Có như thế
thì thế giới con người chắc chắn sẽ tìm ra những đáp án vững chắc và vô cùng
tốt đẹp cho tất cả mọi vấn nạn trong thế giới con người.
Tại Đông Phương từ mấy ngàn năm qua, các nhà hiền triết
thường căn dặn đời loạn thì đem đạo lý mà cứu đời. Ngày nay, cả thế giới đang
nổi loạn và những người Hồi giáo quá khích và cuồng tín đang đi gieo rắc hận
thù ngùn ngụt khắp nơi trong thế giới con người, để xúi giục con người chống
lại con người, tôn giáo này chống lại tôn giáo khác và quốc gia này chống lại
quốc gia khác. Trong thế giới Hồi giáo có 90% trong tổng số 850 triệu người Hồi
giáo đều là những người vẫn sống theo lời dạy của Thánh Kinh Qur’an và của
ALLAH, nhưng đa số những người này vẫn không có tiếng nói hay chưa chịu cất lên
tiếng nói, mặc dù họ không phải là những người Hồi giáo quá khích và cuồng tín.
Hơn 700 triệu người Hồi giáo đó vẫn sống trong im lặng với những khát vọng đang
dâng tràn là được sống trong chế độ Tự Do Dân Chủ của Hồi giáo.
Nhưng,cả thế giới con người chỉ nghe và chỉ biết tới
những tiếng réo gọi hận thù và bạo lực kinh hoàng từ một thiểu số rất nhỏ
khoảng 10% được mô tả là những người Hồi giáo quá khích và cuồng tín. Nhưng
đáng tiếc thay, cả thế giới cứ tưởng rằng, “cả thế giới Hồi giáo Ả Rập đều là
bọn cuồng tín”. Đây là một xét đoán quá sai lầm nhưng lại rất phổ quát,
khi tất cả mọi người và mọi tôn giáo khác, khi nhìn vào thế giới Hồi giáo và
hai chữ Hồi giáo đã trở thành nỗi ám ảnh đầy sợ hãi, kinh hoàng và ghê tởm cho
cả thế giới con người. Đó là một sự hiểu lầm ngộ nhận quá tai hại và nguy hiểm
mà Tổng Thống Nixon đã cảnh cáo Hoa Kỳ khi làm chính sách đối ngoại cho vùng
Trung Đông và vùng vịnh Ba Tư. Vì thế, điều cần thiết khi nhìn vào những cơn
hỗn loạn trong thế giới Hồi giáo đang gieo rắc khủng bố khắp nơi, thì cần phải
phân biệt cho minh bạch, xem đâu là tiếng réo gọi hận thù và bạo lực, và
đâu là tiếng réo gọi của khát vọng Tự Do Dân Chủ cho thế Hồi giáo của hơn 700 triệu người dân lương thiện trong
khối Ả Rập.
Thế giới mà chúng ta đang sống có quá nhiều ngộ nhận và
hiểu lầm giữa người và người, giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, và giữa quốc
gia này và quốc gia khác đã gây bao thống khổ cho con người trên khắp mặt đất,
ở trong đó hình như không còn ai tin ai nữa, và cũng không còn ai muốn nghe ai
nói nữa. Tôn giáo, đạo lý và đức tin tôn giáo đã không còn là ánh sáng soi
đường, và hy vọng cho thế giới quá đổ vỡ và đau khổ cho con người - chỉ còn
lưu lại sự sợ hãi hoang mang, cũng như nỗi hoài nghi vời vợi trong kiếp sống
cũng như trong tôn giáo. Thực ra, không phải tôn giáo, đạo lý và đức tin
không còn là ánh sáng và hy vọng cho thế giới con người mà chính
con người đã dập tắt ánh sáng và hy vọng nơi tôn giáo, đạo lý và đức tin của họ. Như Thánh
Kinh Qur’an đã nói: “con người là vấn nạn của xã hội”.
Nhưng cũng chính con người mới là hy vọng cho xã hội.
Thế giới chúng ta đang sống có sáu chính giáo: Do Thái
giáo, Kito giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và Khổng giáo, tức sáu nền văn
minh tinh thần của cả nhân loại. Theo Thánh Kinh Qur’an thì tất cả đều có chung
một đức tin và có chung một người CHA là ĐẤNG TẠO HÍA, Đấng đang cai quản vũ
trụ đã nuôi dưỡng và đem lại sự sống cho con người và muôn loài trên mặt đất
này. Sáu dòng đạo lý này đều từ Trời mà xuống, để soi sáng hướng dẫn cho thế giới
con người thoát khỏi bóng tối vô minh đang vây phủ tâm hồn và trí tuệ của con
người, để họ tìm lại ánh sáng trong tâm hồn và trí tuệ của họ, để từ đó xây
dựng đời sống tinh thần và tâm linh cũng như xây dựng đời sống xã hội cho tất
cả con người. Tất cả sáu dòng đạo lý đó đều có những giáo lý, luật lệ, tiêu
chuẩn để giúp cho con người xây dựng những cộng đồng tốt đẹp để con người sống
Thanh Bình, Hạnh Phúc bên nhau.
Ngày nay thế giới con người có quá nhiều hận thù, xung đột
đổ vỡ và thống khổ, bởi vì phần đông con người đã ngã gục trước các cuộc phấn
đấu với chính cái mà Thánh Kinh Hồi giáo gọi là: “sự ham muốn của bản năng đầy
thú tính của con người”, vì thế mây mù đã che khuất tâm hồn và trí tuệ nên con
người không còn biết đâu là sự thật, đâu là lẽ phải nữa. Trong tình cảnh như
thế, thế giới con người chỉ còn trông cậy được vào quyền năng tối thượng của
ánh sáng đạo lý tỏa ra từ Trời cao mà sáu chính giáo đều muốn đưa đến cho con
người ánh sáng đó.
Nhân loại đang tiến về NGÔI LÀNG TOÀN CẦU và đang
ngồi chung trong một chiếc thuyền trước những cơn bão tố. Và ánh sáng hướng dẫn
và mọi hy vọng chỉ còn biết trông cậy vào quyền năng của tôn giáo và quyền năng
của đạo lý chính trị, vì thế sáu chính giáo phải tìm mọi cách để đi đến HÒA
ĐỒNG HỢP NHẤT CÁC TÔN GIÁO trên toàn thế giới để có đủ sức mạnh và quyền
năng mà cứu vớt nhân loại.
Từ mấy thế kỷ nay, kể từ thời Phục Hưng vào thế kỷ XIV cho
đến nay (2012) thế giới của trí thức thường nghiệm (Experimental intellectual)
thường tôn vinh khoa học và khinh bỉ tôn giáo. Nhưng đúng như tinh thần Thánh
Kinh Hồi giáo đã nói: “khoa học có khả năng vượt qua và vượt lên trên những đam
mê mù quáng của con người không?”. Câu hỏi kế tiếp là: “khoa học làm được gì
trước sự sa đọa lương tâm của con người và khoa học có đáp ứng được những cơn
khát đói về tâm linh và tinh thần của thế giới con người không?”. Không
phải khoa học mà chính những người tôn sùng quá độ sự thành tựu vật chất của
khoa học đã làm sụp đổ tất cả mọi giá trị tinh thần thiêng liêng trong thế giới
con người. Đó là vấn nạn lớn nhất lịch sử hiện nay của nhân loại. Muốn cứu
vãn mọi giá trị tinh thần ấy thì phải trông vào 6 nền văn minh tinh thần của
nhân loại.
Những phong trào Hồi giáo về nguồn (Islamic Extremist
Fundametalism) quá khích và cuồng tín đã và đang cổ súy những hận thù bạo lực
khắp nơi khiến Samuel Hungtington lo sợ thế kỷ XXI sẽ có những va chạm văn minh
(clash civilization) dữ dội giữa tôn giáo này và tôn giáo khác và giữa nền văn
minh này và nền văn minh khác. Điều làm cho giới trí thức ưu tú và
các lãnh tụ Hoa Kỳ ưu tư hơn cả là sẽ có những va chạm giữa văn minh Kito giáo
của Hoa Kỳ và tây phương với văn minh Hồi giáo tại Trung Đông và văn minh Trung
Hoa tại Á Châu. Điều cực kỳ quan trọng được xác quyết đầu tiên và trên hết
là 6 nền văn minh trên đều là 6 chính giáo. Có nghĩa đây là 6 nền văn minh tinh
thần của tất cả nhân loại. Từ 6 – 7 thế
kỷ qua kể từ thời Phục Hưng thế giới của con người phần đông đã chạy theo tôn
sùng những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, nên tất cả những giá trị tinh thần
và tâm linh, nếu không sụp đổ thì cũng bị lu mờ như những ngọn đèn le lói trong
đêm thâu. Sáu nền văn minh trên không phải thuần túy tinh thần mà là 6 luồng
ánh sáng đã soi sáng và dẫn dắt toàn bộ cuộc sống tinh thần và vật chất cho tất
cả nhân loại từ Đông phương qua Tây phương. Nội dung giáo lý của 6 tôn
giáo kể trên không hề có bất cứ điều nào, điểm nào xung khắc mâu thuẫn với
nhau, bởi vì tất cả đều từ Trời mà xuống để soi sáng và dìu dắt nhân loại.
Nhưng con người luôn luôn xung đột với nhau khi nhân danh
tôn giáo; chính con người là vấn nạn của tôn giáo. Bởi vì tất cả 6 nền văn minh
tinh thần đó đều soi sáng và dẫn dắt các dân tộc và các chủng tộc trên toàn thế
giới từ bao ngàn năm qua để đi về với một người cha chung là ĐẤNG TỐI CAO (MOST
HIGH) hay ĐẤNG TẠO HÍA (CREATOR) và đi về với CHÂN TÂM (TRUE CONSCIENCE) của
mỗi con người. Đó chính là điểm hòa đồng hợp nhất của tất cả nhân loại và của
cả 6 chính giáo. Nếu thế giới ngày nay có những va chạm văn minh không phải va
chạm giữa văn minh và văn minh mà là sự va chạm của con người với con người
trong các nền văn minh khác nhau. Từ đó cho thấy phong trào về nguồn của Hồi
giáo tại Trung Đông quá khích và cuồng tín đang cổ súy hận thù và bạo lực với
Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương đã vi phạm trầm trọng giáo lý của Thánh Kinh
Qur’an. Những nhóm người này đã đi ngược hẳn lại những lời giáo huấn của giáo
lý Hồi giáo. Tất cả những người Hồi giáo quá khích và cuồng tín đó đã tự nói
lên rằng họ đã bỏ quên con đường Tâm Đạo nên chưa thật sự trưởng thành về mặt
tâm linh và tinh thần như ALLAH đã kỳ vọng nơi họ, họ cũng không có sự hiểu
biết sâu xa và kiến thức về các nền văn minh khác của nhân loại. Tất cả theo
Thánh Kinh Qur’an đã thừa nhận tính cách đồng nguyên với Do Thái giáo và Kito
giáo như sau:
“ĐẤNG TẠO HÓA đã quy định cho các ngươi một chiều hướng
đức tin giống nhau (the same faith) đúng như Tạo Hóa đã đến với Noah (thời Đại
Hồng Thủy) và trong cùng chiều hướng đó chúng tôi cũng đưa đến cho các người
cũng giống như đức tin mà chúng ta thấy nơi Abraham Moses, Chúa Jesus. Vì lẽ
đó, hãy giữ vững đức tin và đừng làm gì khác nữa trên những điều đã được dạy dỗ
(Tạo Hóa đã quy định cho các ngươi) để xây dựng trên sự vâng phục (Surrender)
và đừng chia rẽ nhau thành các giáo phái (trích 42:13)”
Quan trọng hơn là Hồi giáo đã thừa nhận rằng: “Hồi giáo
chấp nhận theo Ten Commandments như giao ước của chính Hồi giáo (trích 2:3)”
Những người Hồi giáo rất sùng đạo và phần đông có một đức tin vô cùng mãnh
liệt; vì thế nếu họ không chú tâm vào con đường tu Tâm Đạo như Thánh Kinh Hồi
giáo đã dạy dỗ họ để có đời sống trong sạch và thánh thiện mà họ để cho những
diễn dịch sai lạc Thánh Kinh để dẫn bao người đi vào con đường quá khích và
cuồng tín thì quá tai hại và nguy hiểm.
Bởi vì trong giao ước giữa THIÊN CHÚA và Hồi giáo có ghi.
“Các ngươi không được giết người” Đây là giao ước họ phải giữ vì đó là giao ước
với ALLAH. Bên cạnh đó Thánh Kinh Hồi giáo còn dặn dò: “Bình
Đẳng, tình huynh đệ và Tự Do” là lời giảng dạy nền tảng của Thánh Kinh Qu’ran. Đó là cuốn
sách được truyền bá từ THIÊN CHÚA (God), ĐẤNG TẠO HÍA (Creator), người cha đã
ban cho tất cả sự sống và nuôi dưỡng, Đấng cai quản vũ trụ, đưa dắt con người
đến chỗ hoàn hảo và đến với những lời của THIÊN CHÚA. Từ đó chúng ta sẽ tìm
kiếm con đường đưa đến sự hòa đồng hợp nhất cho cả nhân loại, đưa đến tình yêu
thương đầm ấm giữa anh em trong thế giới con người, không còn phân cách chia
lìa vì màu da, đẳng cấp, xứ sở, ngôn ngữ và chức tước hay phẩm trật. Cuốn sách
đã đứng ở vị trí cao xa để bị thách thức và đe dọa bởi tầng lớp trí thức tôn
thờ văn minh vật chất thời hiện đại. Thánh Kinh Qur’an có thể nói là tiếp tục
cuộc thử thách nghiêm trọng để đưa đến một định nghĩa cho những tiêu chuẩn và
những giá trị cho một thế giới gia tăng sự bấn loạn tơi bời. Trước sự
gia tăng bấn loạn tơi bời trong thế giới Hồi giáo ở vùng Trung Đông có 3 dòng
đạo lý mà THIÊN CHÚA đã sai các tiên tri đưa đến thế giới con người: Do Thái
giáo, Kito giáo và Hồi giáo và cả 3 tôn giáo đều nhận Jerusalem là đền thờ của
họ, nhưng Chúa Jesus đã dạy con người rằng: “Đền thờ của các ngươi không phải ở
chỗ này hay chỗ kia mà đền thờ của THIÊN CHÚA nằm trong tâm hồn của các ngươi”.
Đó chính là đền thờ mà ALLAH hay Tạo Hóa muốn tất cả con người thờ lạy Tạo Hóa.
Tại sao nơi đây và bây giờ lại biến thành vùng đất của hận thù. Nếu con người
còn giữ được CHÂN TÂM thì vùng đất Trung Đông sẽ trở thành vùng đất của tình
yêu thương giữa người và người.
II. CHÂN TÂM CON NGƯỜI LÀ HY VỌNG CHO
MỌI
VẤN NẠN.
Theo Thánh Kinh Hồi giáo chữ Tayammun của Ả Rập được lấy ra từ chữ Iman, có nghĩa
là một điều được đề nghị, để chỉnh đốn, sửa sai một điều gì đó: cầu nguyện phải
có sự thanh lọc tu trì để thánh hóa tâm hồn (purification) và thanh lọc thánh
hóa tâm hồn là chìa khóa để dẫn tới cầu nguyện và đó là một phần của Iman và
Iman được xây dựng trong sự trong sạch cũng như tẩy sạch thân xác là một sự sửa
soạn cần thiết, một tâm hồn trinh bạch vô tì vết trong một thân xác trong sạch
là điều được chú trọng trong Hồi giáo. Điều kiện đầu tiên của sự tẩy rửa thân
xác là wadzu. Nhưng với một người không có nước để wadzu hoặc khi dùng nước có
hại thì vẫn cần có một hành động thanh lọc từ chỗ làm sạch thân xác đến chỗ làm
sạch tâm hồn đó chính là mục tiêu để cầu nguyện. Đó là mục đích của Tayammun bởi
vì sự chú tâm của Tayammun là đi về với nội tâm sâu thẳm. Ở đó wadzu bao gồm cả
2 tay, phải rũ sạch đất bụi và vết nhơ bẩn, đi từ 2 tay đến mặt mũi rồi trở lại
2 tay từ trái qua phải (trích 7:45) Những người Hồi giáo muốn đi đến để đạt
được cứu cánh của đời người thì Thánh Kinh Hồi giáo cho biết như sau: “Nhưng
(chỉ có một con người được cứu rỗi) khi người đó tìm đến với ALLAH bằng tâm hồn
trong sạch vô tì vết và thánh thiện” (trích 26:89) Hồi giáo (Islam) có nghĩa là
sự vâng phục (surrender), một người Hồi giáo là một người đã dâng hiến trọn vẹn
đời sống cho ALLAH, vâng phục và tuân hành tất cả mọi mệnh lệnh của THIÊN CHÚA
là con người phải cùng nhau xây dựng lên những cộng đồng ở đó con người sống
với nhau và cư xử với nhau trên tinh thần Bình Đẳng, Công Lý và nhân từ. Người
Hồi giáo khi gục mặt xuống đất cầu nguyện (salat) đã thể hiện trọn vẹn sự vâng phục của họ đối
với ALLAH. Những người Hồi giáo được dạy là phải gục mặt xuống đất để giảm bớt
tính kiêu căng, tự phụ và tự mãn của họ. Họ đã được dạy để bỏ bớt tính kiêu
căng và ích kỷ, và luôn luôn nhớ rằng trước mặt ALLAH họ chẳng là gì cả. Để vâng
phục theo đúng lời dạy của Thánh Kinh Qu’ran, những người Hồi giáo phải có bổn
phận dành một phần lớn lợi tức của họ cho những kẻ nghèo khó trong việc làm từ
thiện (jakat). Họ sẽ phải ăn chay trong tháng Ramadan để nhắc nhở chính họ về
sự nghèo khó của bao kẻ khác, đó là những người thường không có đồ ăn và đồ
uống. Đạo đức quan trọng nhất của người Hồi giáo là thực thi Công Lý xã
hội, họ được đòi hỏi xây nên cộng đồng
(ummab), để mọi người thực thi lòng nhân
từ, ở đó của cải phải được phân phối công bình. Đây là trách vụ quan trọng hơn
bất cứ giáo lý nào THIÊN CHÚA đã dạy. Điều thiết yếu nhất đòi hỏi là người Hồi
giáo phải sống theo lối sống mà THIÊN CHÚA muốn tất cả con người phải sống. Họ
phải xây dựng xã hội chính trị để lo về an sinh xã hội trong đời sống của cộng
đồng là một giá trị thiêng liêng của những tín hữu Hồi giáo. Nếu một cộng đồng
phồn vinh, thịnh vượng thì đó là dấu hiệu cho thấy là người Hồi giáo đã sống
theo Thánh ý của THIÊN CHÚA, bởi vì đó là cộng đồng Hồi Giáo thật sự. Và đó
cũng là điều khiến con người phải vâng phục và tuân hành theo luật của Trời
cao, từ đó sẽ đưa những người Hồi Giáo vào chỗ thiêng liêng cao cả.
Như thế bốn giá trị cốt lõi nền tảng của Thánh Kinh Qur’an
muốn đem đến cho thế giới Hồi giáo là TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, CÔNG LÝ VÀ LÒNG
NHÂN TỪ trong đời sống chính trị và xã hội của cộng đồng Hồi giáo. Bốn giá
trị này không chỉ có Hồi giáo mới có mà trong Do Thái giáo và Kito giáo cũng có
bốn giá trị đó, và đã có trước Hồi giáo mấy ngàn năm. Trong việc phát triển văn
hóa và lịch sử cho thấy, thế giới Hồi giáo đã không xây dựng được một cộng đồng
lý tưởng như Thánh Kinh và THIÊN CHÚA đã đưa đến cho những người Ả Rập. Trong
lúc Do Thái đã áp dụng luật của Moses tức TEN COMMANDMENTS và TORAH để xây dựng
nên cộng đồng quốc gia Do Thái. Đây mới đúng là cộng đồng với sự quan phòng
trực tiếp của THIÊN CHÚA. ONE NATION UNDER GOD, có nghĩa là quốc gia đó xây
dựng trên luật của THIÊN CHÚA (Torah), tức luật thiên nhiên. Sau thời Moses
(1400 BC) dân Do Thái đòi THIÊN CHÚA thiết lập chế độ quân chủ và xin một vì
vua để cai trị dân Do Thái. THIÊN CHÚA đã cảnh cáo là nếu muốn
chối bỏ THIÊN CHÚA và tin cậy vào con người và muốn có vua, THIÊN CHÚA sẽ đưa
vua đến nhưng dân sẽ bị điêu đứng, khổ sở vì vua chúa. Chế độ Cộng Hòa và một
quốc gia đặt dưới sự quan phòng trực tiếp của THIÊN CHÚA đã từ từ biến mất.
Lịch sử Do Thái cho thấy trong hơn 40 ông vua của Do Thái,
con số minh quân có lòng nhân từ, sáng suốt và vẫn cai trị dân theo luật của
THIÊN CHÚA rất ít. Đặc biệt chỉ có 2 triều đại của vua David và vua Salomon thì
vô cùng vinh quang và rực rỡ, vì họ đều tuân hành vâng phục THIÊN CHÚA và đem
luật của THIÊN CHÚA đã dạy để cai trị dân; còn lại đa số là những vị vua độc
tài chuyên chế và ích kỷ, đã không cai trị dân và cai trị quốc gia theo luật của
THIÊN CHÚA được. Vì thế , THIÊN CHÚA đã sai các tiên tri đến để cảnh cáo các
vua và cả dân là thảm họa đến với họ không thể nào thoát khỏi vì đã chối bỏ
THIÊN CHÚA và luật của THIÊN CHÚA. Sau đó, đế quốc Babylon đã xâm lăng Do Thái
và bắt dân Do Thái đi đày để sống kiếp nô lệ tại Babylon. Sau này dân Do Thái
đã bị sống kiếp lưu đày trên khắp thế giới và quốc gia Do Thái biến mất cho mãi
đến năm 1948 mới xây dựng lại được quốc gia Do Thái cho đến ngày nay ở
Palestine. Từ đó Do Thái trở thành mục tiêu thù nghịch của cả khối Hồi giáo cho
đến ngày nay. Mặc dù Do Thái và Ả Rập đều có chung một tổ phụ là Abraham và cả
ba tôn giáo là Hồi giáo, Do Thái giáo và Kito giáo đều thờ chung một THIÊN CHÚA
nhưng có ba tên gọi khác nhau: GOD, ALLAH, JEHOVA. Và cả ba tôn giáo đều nhận
Jerusalem là Đền thờ của họ. Cả ba tôn giáo đều đại diện cho ba nền văn minh
tinh thần lớn nhất của nhân loại. Điều đáng nói hơn cả là ba dòng đạo lý sáng
chói này đều muốn đề cao bốn giá trị Tự Do, Bình Đẳng, Công Lý và Lòng Nhân Từ
làm nền móng để xây dựng con người và xây dựng cộng đồng cho con người. Muốn có
Tự Do con người phải vượt thắng được những ham muốn của bản năng đầy thú tính
của họ, phải kiểm soát và khống chế được những tham, sân, si của chính mình.
Tham lam, ích kỷ, hận thù và ghen ghét và những đam mê thường xô đẩy tâm hồn và
trí tuệ của con người rơi vào bóng tối vô minh. Chính sự vô minh là đầu mối cho
mọi nghiệp chướng (karma) và tội lỗi của con người. Vì nghiệp chướng và tội lỗi
con người đã đánh mất Chân tâm, mất đạo lý và mất sự sống cao quý của họ (…). Vì thế
,tất cả các chính giáo đều tìm mọi cách để cứu CHÂN TÂM của con người. Khi
người tìm được CHÂN TÂM thì người đó trở thành con người của tự cho, Bình Đẳng,
Công Lý và đầy lòng Nhân Từ. Do đó, CHÂN TÂM của con người là hy vọng của tất
cả mọi vấn nạn. Có CHÂN TÂM con người mới có ánh sáng minh triết. Khi con người
tìm lại được CHÂN TÂM thì con người sẽ gặp lại được THIÊN CHÚA hay ĐẤNG TỐI
CAO, vì THIÊN CHÚA là ánh sáng và ánh sáng là tên gọi khác của THIÊN CHÚA, của
ALLAH, của JEHOVA. Những người đi theo Phật giáo thường nói: “Đức thế tôn
không tin có THIÊN CHÚA, hay ALLAH, Thượng Đế nhưng Người lại tin vào ánh sáng
của Đại Ngã”. Nhưng ánh sáng của đại ngã là tên khác của THIÊN CHÚA, của
Jehova, của ALLAH. Ngoài ánh sáng giác ngộ Phật giáo thường nói đến lòng từ bi,
tức tình yêu thương nhân từ. Và ở đâu có lòng từ bi, có tình yêu thương và lòng
nhân từ -ở đó có THIÊN CHÚA, có ALLAH – bởi vì THIÊN
CHÚA là tình yêu, ALLAH là tình yêu. Vì thế giáo lý của các
chính giáo thường sử dụng ngôn ngữ khác nhau vì các dòng đạo lý xuất phát từ
nhiều xứ sở khác nhau và ngôn ngữ khác nhau, nhưng nội dung giáo lý đều giống
nhau và đều đề cập đến một ĐẤNG TỐI CAO cũng như đều nói đến CHÂN TÂM của con
người. Con người sẽ bị coi là lạc đạo nếu họ đánh mất CHÂN TÂM của họ
trong đời sống tôn giáo cũng như đức tin của họ.
Vì thế chúa Jesus thường dạy rằng: “Các anh em hãy tìm lấy
sự thật và sự thật sẽ anh em” (trích …) Sự thật đầu tiên và trên hết là con
người phải tìm được ánh sáng của CHÂN TÂM và CHÂN TÂM sẽ giải phóng họ. Ấn Độ
giáo và Phật giáo tìm mọi cách để giúp chúng sinh phá bỏ bức màn vô minh và
chúa Jesus cũng đến thế gian để cứu con người ra khỏi tội lỗi, hay ra khỏi
nghiệp chướng và ra khỏi bóng tối vô minh bằng cách giúp con người tìm lại CHÂN
TÂM, tức tìm lại ánh sáng trong tâm hồn và trí tuệ của họ. Khi con người tìm
được ánh sáng thì con người là con cái của ánh sáng vì thế chúa Jesus thường
nói: “Ta là ánh sáng thế gian và THIÊN CHÚA nói các con là ánh sáng của thế
gian”.
Từ một ĐẤNG TẠO HÓA tức là người cha chung của tất cả nhân
loại và từ CHÂN TÂM của con người chúng ta tìm ra được thế nào là vạn giáo nhất
lý và sự đồng nguyên của tất cả 6 chính giáo (True Religion) trong gia đình
nhân loại. Tất cả những giá trị giống nhau nơi các dòng đạo lý
chính là luật thiên nhiên trong Trời đất. Tất cả đều là một gốc từ
Trời mà xuống nên các tôn giáo không còn lý do để nhân danh tôn giáo mà dẫn đến
những hận thù xung đột giữa tôn giáo này và tôn giáo khác nữa. Vấn đề còn lại
là các tín hữu của 6 chính giáo đã đến lúc phải học hỏi lẫn nhau để lấy chỗ dư
bù vào chỗ thiếu đúng như tinh thần trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ mà
Tổng Thống Nixon đã viết: “Mặc dù Tây Phương và Hồi giáo có những khác biệt sâu
xa trong sự phát triển văn hóa và lịch sử, chúng ta có thể cùng học hỏi lẫn
nhau, học lại những lý do đã làm cho chúng ta thành công hay thất bại trong quá
khứ. Thế kỷ XX là khoảng thời gian của những xung đột của Tây Phương và thế
giới Hồi giáo. Nếu chúng ta làm việc với nhau để làm cho thế kỷ XXI không chỉ
là một thế kỷ của Hòa Bình tại Trung Đông và vùng vịnh Ba Tư, mà là một thế kỷ
mà ở đó vượt qua Hòa Bình với hai nền văn minh vĩ đại sẽ bổ túc cho nhau để cả
hai trở thành phong phú rực rỡ cho nhau và cho cả thế giới – không bởi vũ khí
và sự giàu có mà bằng sự réo gọi những lý tưởng của đôi bên”.
Trên tinh thần hợp tác để học hỏi lẫn nhau giữa tôn giáo
này và tôn giáo khác, giữa nền văn minh này và nền văn minh khác và giữa nền
văn hóa này và nền văn hóa khác trong gia đình nhân loại. Đó là tinh thần của
THỜI ĐẠI TÔN GIÁO TOÀN CẦU và DÂN CHỦ HÓA TOÀN CẦU, ở đó các tôn giáo hòa đồng
hợp nhất với nhau để thờ lạy một người CHA chung đang cai quản vũ trụ và đem sự
sống đến cho con người và muôn sinh vật trên mặt đất. Và tất cả 6 chính giáo (true
religion) hãy tìm mọi cách để giúp cho tất cả tín đồ tìm lại ánh sáng CHÂN TÂM
của mỗi con người, để con người cùng nhau sống trong NGÔI LÀNG TOÀN CẦU trong
Hòa Bình và Hạnh Phúc.
CHỈ CÓ CHÂN TÂM CÁC TÔN GIÁO MỚI HÒA ĐỒNG HỢP NHẤT VỚI NHAU ĐƯỢC, CŨNG NHƯ CHỈ CÓ CHÂN TÂM CON NGƯỜI
MỚI HỢP NHẤT ĐƯỢC VỚI NHAU, CŨNG NHƯ HỢP
NHẤT VỚI NGƯỜI CHA CHUNG CỦA TẤT CẢ NHÂN
LOẠI BỞI VÌ CON NGƯỜI LÀ NGUỒN GỐC CỦA MỌI VẤN NẠN TRONG THẾ GIỚI CON NGƯỜI.
NHƯNG NẾU CON NGƯỜI TÌM LẠI ĐƯỢC CHÂN
TÂM THÌ CON NGƯỜI LÀ NGUỒN HY VỌNG CHO
TẤT CẢ THẾ GIỚI CON NGƯỜI.
III. THẾ GIỚI HỒI GIÁO THỰC SỰ MUỐN
GÌ, XÂY DỰNG ONE NATION UNDER ALLAH OR ONE NATION UNDER MAN?
Trên quan điểm toàn cầu và từ vùng đất cũng như khung Trời
hận thù ngùn ngụt tại Trung Đông bao tiếng nói của hận thù, ghen ghét và cuồng
nộ đã cất lên để chĩa mũi dùi vào Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương như những kẻ tử
thù (deadly enemies) của thế giới Hồi giáo. Đúng như tinh thần của Thánh Kinh
Hồi giáo đã nhận xét: “Hận thù khởi đi từ những cá nhân con người thường ôm ấp
hận thù”, cũng như: “Tính gian tham và ích kỷ của một số lãnh tụ quốc gia đã
chia rẽ con người”.
Như vậy ai thật sự là người ôm ấp hận thù? Và ai là những
lãnh tụ gian tham, ích kỷ hoặc ghen ghét hận thù để tạo nên những xung đột xâu
xé trong khung cảnh quốc tế trong quá khứ và hiện tại? Những người Mỹ có phải
là những người ôm ấp hận thù không? Và lãnh tụ Hoa Kỳ có phải là những lãnh tụ
gian tham, ích kỷ để tạo ra những xâu xé xung đột trên thế giới không? Người Mỹ
là ai và các lãnh tụ Hoa Kỳ là những loại người nào? Trong thế giới Hồi giáo có
được bao nhiêu con người hiểu được lịch sử của nước Mỹ không? Họ có được sự
hiểu biết và kiến thức toàn diện không hay họ chỉ có cái nhìn phiến diện vào
một vài hiện tượng xã hội trên bề mặt có vẻ xấu xa để kết luận rằng cả nước Mỹ
đều xấu xa cần phải xa lánh? Những người trong thế giới Hồi giáo có biết nước
Mỹ xây trên nền tảng nào không và họ đã làm gì và đang muốn làm gì khi muốn đến
với các quốc gia, chủng tộc tại Âu Châu, Á Châu và Trung Đông? Thế giới này sẽ
ra sao và sẽ đi về đâu khi nước Mỹ trở về với khuynh hướng cô lập với toàn thế
giới và quyết định không dính dáng gì với thế giới bên ngoài nữa? Khi nhìn lại
quá khứ đệ I và II thế chiến, cả Âu Châu có thoát khỏi nanh vuốt của Hitler và
nước Đức không? Các quốc gia thuộc thế giới đệ tam có thoát khỏi xiềng xích nô
lệ của Liên Xô và Bắc Kinh không? Á Châu sẽ ra sao và số phận của các quốc gia
sẽ trôi về đâu với rừng đao kiếm và bom đạn của Đế quốc Nhật? Tại sao các quốc
gia Hồi giáo thoát khỏi mộng xâm lăng và bá chủ của Iran và Iraq với những đam
mê vô độ của tham vọng bành trướng và thống trị của hai quốc gia quá khích và
cuồng tín này? Cuối cùng, một trang sử cực kỳ u ám và hỗn loạn tại Á Châu có
tránh được không, khi mà mộng bành trướng xâm lăng và mộng bá chủ của Đế quốc
Đại Hán vẫn sôi sục trong lòng những người lãnh tụ Trung Hoa đầy tính gian tham
và ích kỷ, khi mà Á Châu Thái Bình Dương không còn bóng dáng người Mỹ nữa?
Việc xét đoán và phê phán đối với một con người đã khó,
huống chi việc xét đoán và phê phán một quốc gia thì khó khăn vô cùng. Thông
thường, con người đa số sống theo cảm tính và bản năng, vì thế thương ghét là
một tiêu chuẩn cho mọi xét đoán và phê phán của họ. Sự xét đoán và phê phán dựa
trên bản năng và cảm tính thường đánh mất sự vô tư và khách quan không thể
thiếu trong mọi xét đoán và phê phán. Nếu muốn sự xét đoán và phê phán không
mất đi sự công bằng và công tâm cũng như sự sáng suốt. Đặc biệt khi đứng trước
những lựa chọn quan trọng, khó khăn, vì sự lựa chọn sẽ đưa đến sự chết hay sự
sống không chỉ cho một con người hay nhiều con người mà nhiều quốc gia và cả
thế giới. Thực ra, phần đông con người chỉ sống với bản năng và cảm tính nên
rất dễ bị thuyết phục bởi những lãnh tụ có tài ăn nói thu hút và khéo léo khơi
động tình cảm của con người. Những ghen ghét ngấm ngầm giữa màu da, chủng tộc,
giai cấp hoặc giàu nghèo hay tôn giáo quá khích của con người lúc nào cũng có
thể bùng nổ những giận dữ và cuồng nộ, nếu có người biết khéo léo khơi dậy như
những người quốc tế cộng sản đã làm hay như những người Hồi giáo cuồng tín đang
khơi dậy hận thù với Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương. Đám đông con người vì sống
bằng bản năng và cảm tính dễ bị cuốn hút vào những cơn lốc hận thù, nhưng khi
đám đông đã đưa những người cộng sản nắm được quyền lực thì ngay sau đó đám
đông trở thành nạn nhân bi thảm nhất của cộng sản mà không làm sao vùng thoát
được khỏi nanh vuốt hãi hùng của quyền lực thô bạo. Những xét đoán và phê phán
đã đưa đến những hậu quả bi thảm không làm sao lường được cho chính họ. Họ phải
trả giá bằng chính mạng sống của họ vì những xét đoán theo bản năng và cảm tính
quá nhẹ dạ và dễ tin.
Tại thế giới Hồi giáo những lãnh tụ thuộc phe cực đoan
và cuồng tín cũng sống với những nỗi đam mê quyền lực của thần quyền, một thứ
thần quyền được tập trung vào tay tu sĩ hay giáo sĩ nghĩa là những con người
không có ai là thiên thần cả vì họ là những người cũng đánh mất CHÂN TÂM. Và
khi những người này chiến thắng là nắm được quyền lực họ sẽ thiết lập nên một
guồng máy chính trị độc tài của thần quyền như ở Iran đã xảy ra để đàn áp trí
thức, đối lập và quần chúng nổi lên chống đối. Đó là
những hậu quả không thể nào tránh được. Vì thế các nước Hồi giáo tại Trung Đông
khó mà có Hòa Bình, ổn định, Tự Do Dân Chủ như đa số mọi người thường mơ ước mà
từ 1400 năm qua vẫn chưa đạt được trừ phi họ trở về với lời dạy của ALLAH và
Thánh Kinh Qur’an để trở nên những người Hồi giáo chân chính nhất, thông minh
nhất, sáng suốt nhất và khôn ngoan nhất. Tại Âu Châu vào thế kỷ XVI các nhà
thần học như Luther và Calvin đã đưa ra một cuộc cải cách tôn giáo vĩ đại
(Reformation) của thế giới Kito giáo. Họ chối từ những diễn dịch Thánh Kinh Cựu
ước và Tân ước của hàng giáo phẩm trong giáo hội Công Giáo La Mã để trở về với
những lời dạy của THIÊN CHÚA trong Thánh Kinh để từ đó khai sinh ra trường phái
Tin lành (Protestantism) mà những người công giáo Việt Nam thường gọi là “bọn
thề phản”. Từ đó chiến tranh giữa hai phe công giáo và Tin lành đã bộc phát rất
tàn bạo và đã kéo dài suốt 30 năm tại Âu Châu. Nhóm Tin lành chủ trương sống
theo lời Chúa trong Thánh Kinh là truyền bá Phúc âm (Evangelism). Đây là trường
phái ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI (Practical Religion) đã ra đời từ gần 500 năm nay và khai
sinh ra văn minh Dân Chủ (Democratic Civilization) và khai sinh ra nước Mỹ và
nước Mỹ đã truyền bá văn minh Dân Chủ trên toàn thế giới cho đến ngày nay.
Những người cha khai sinh ra nước Mỹ (American Founding Fathers) đều xuất thân
từ trường phái của John Calvin tức Puritan để đem vào đời sống chính trị luật
đạo đức (Eternal Moral Code) của Cựu ước.
Luật của Cựu ước để xây dựng nên cộng đồng của quốc gia
Luật của Tân ước để xây dựng CHÂN TÂM cho con người.
Luật đạo đức của cộng đồng quốc gia từ Ten Commandments.
Luật của tình yêu trong Tân ước nằm trong bài giảng trên núi của Chúa Jesus.
Cựu ước hướng dẫn xây dựng Công Lý cho đời sống xã hội và
đời sống quốc gia.
Tân ước xây dựng tinh thần Tự Do Bình Đẳng và lòng nhân từ
cho con người sống trong cộng đồng quốc gia.
ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI cũng chỉ là thực hành đức tin tôn giáo
(pratical faith) hay thực hành đạo lý (practical Divine Way) của Trời trong đời
sống xã hội của con người. Vì thế đứng trên phương diện thế tục (secularism)
hay xã hội dân sự tôn giáo mãi là ánh sáng của minh triết. Thế giới thế tục hay
trần tục, có thể chối bỏ THIÊN CHÚA, Thượng Đế, ALLAH hay Tạo Hóa nhưng lại rất
cần có ánh sáng minh triết. Thế giới thế tục và trần tục cũng có thể chối bỏ
tôn giáo, nhưng không thể nào chối bỏ được ánh sáng lương tâm của con người nếu
xã hội cần những con người cao quý và sáng suốt. Bởi vì thiếu ánh sáng minh
triết con người sẽ trở thành những kẻ vô minh. Và quan trọng hơn, khi con người
đã đánh mất ánh sáng của lương tâm, con người sẽ sống trong bóng tối của bản
năng và dục vọng mù quáng hướng dẫn đời sống của họ. Từ đó con người trở thành
vấn nạn hãi hùng cho chính họ và cho xã hội mà họ đang sống. Như vậy, những
người có chủ trương khuynh hướng hoàn toàn trần tục và thế tục (absolute
secularism) sẽ giải quyết vấn nạn vô minh của con người như thế nào đây? Ngoài
ra, trước bóng tối của bản năng và dục vọng mù quáng của con người, những người
có khuynh hướng thế tục và trần tục thuần túy sẽ làm gì để giải trừ cái bóng
tối của bản năng và dục vọng mù quáng của con người? Hiển nhiên cho thấy thế
giới con người sống không thể nào thiếu được ánh sáng minh triết nếu họ không
muốn bị bóng tối của vô minh vây hãm và quật ngã, bởi vì vô minh là nguồn gốc
của tất cả tội lỗi và nghiệp chướng (Karma ) của thế giới con người. Tội lỗi
cũng chỉ có nghĩa là sống ngược lại với luật thiên nhiên trong Trời đất hay
ngược lại với đạo lý. Sống như thế là chống đối lại với THIÊN CHÚA, ALLAH hay
Tạo Hóa. Sự thật kế tiếp là tâm hồn và trí tuệ của con người là điểm hội
tụ của ánh sáng minh triết và bóng tối của dục vọng xuất phát từ lòng tham dục
của bản năng. Giữa hai đối cực đó con người được THIÊN CHÚA cho Tự Do để chọn
lựa trong đời sống của họ và họ phải gánh lấy trách nhiệm và hậu quả của việc
lựa chọn đó. Sự lựa chọn có thể đưa con người đến sự sáng suốt, khôn ngoan,
thông minh, an bình và Hạnh Phúc hay đưa con người vào con đường vô minh u ám,
bấp bênh, yếu đuối vật vã, đần độn, bất an và đau khổ. Con người sáng suốt và
Hạnh Phúc vì họ sống theo luật tự nhiên trong Trời đất hay sống theo đạo lý.
Khi con người sống ngược lại với đạo lý tức ngược lại với luật thiên nhiên thì
họ sống trong vô minh và đau khổ. Tất cả lịch sử đã chứng minh điều đó.
Nếu con người có sự minh triết thì họ là con cái của ánh
sáng và ánh sáng chính là THIÊN CHÚA hay Tạo Hóa và vì có ánh sáng con người sẽ
có một đời sống an vui và Hạnh Phúc.
Nếu con người cần ánh sáng lương tâm thì không có thứ
khoa học hay chủ nghĩa thế tục nào giúp con người có được ngoại trừ các chính
giáo. Vì thế loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội của con người thì bóng
tối của dục vọng sẽ tuôn vào đời sống mà xã hội và con người không chống đỡ
được. Nếu xã hội con người muốn có Công Lý trong đời sống xã hội thì xã hội đó
không thể nào vô thần được; bởi vì THIÊN CHÚA hay Tạo Hóa chính là Công Lý. Và
luật tự nhiên trong Trời đất là luật Công Lý và luật đạo đức.
“Nếu nhân loại cần có những nền văn minh tinh thần
(spiritual civilization) để giúp con người xây dựng đời sống tinh thần và tâm
linh tốt đẹp của họ vì thế xã hội con người cần có tôn giáo bởi vì không có thứ
khoa học nào và lý thuyết trần tục nào có thể xây dựng được những giá trị tinh
thần”
Khoa học và triết lý trần tục có thể chối bỏ tôn giáo
nhưng khi chối bỏ lương tâm và mọi giá trị tinh thần của con người thì đời sống
xã hội trở thành thảm họa vĩ đại. Khoa học và lý thuyết trần tục vô
thần muốn thay thế tôn giáo để hướng dẫn con người và xã hội nhưng đó là những
ngọn đèn không có ánh sáng tâm hồn và trí tuệ nên làm cho mọi giá trị tinh thần
từ từ sụp đổ và làm cho lương tâm của con người bị mất đi, từ đó bao thảm họa
khác phát sinh.
Đúng như Tổng Thống Nixon đã nhận xét hai nền văn minh
Kito – Do Thái giáo của Hoa Kỳ và nền văn minh Hồi giáo rực rỡ, nhưng sự phát
triển văn hóa và lịch sử khác nhau nên cần học hỏi lẫn nhau để bổ túc lẫn nhau.
Điều mà người dân Mỹ cần học hỏi nơi Hồi giáo là đức tin tôn giáo của người Ả
Rập quá mãnh liệt, có thể nói mãnh liệt nhất trong thế giới tôn giáo. Nhưng
người Hồi giáo cần quay về Hoa Kỳ để học hỏi làm thế nào để biến đức tin thành
đời sống chính trị và xã hội cho con người được sống trong Thanh Bình và Hạnh
Phúc. Những người Ả Rập cần phát triển văn hóa và lịch sử theo đúng tiêu
chuẩn, luật lệ và giáo lý của Thánh Kinh Qur’an, bởi vì tất cả giá trị của văn
minh Hồi giáo là xây dựng nên những con người Tự Do, Bình Đẳng, Công Lý và nhân
từ. Đó là lời dạy của ALLAH và tiên tri Muhammad từ 1400 năm qua. Bài học
tôn giáo và chính trị của thế giới Hồi giáo quá phức tạp vì vấn đề thần quyền
và thế quyền vẫn không minh bạch phải chăng thế giới Hồi giáo muốn có một quốc
gia ONE NATION UNDER ALLAH thì phải quay về thời Moses của Do Thái và quay về
Hoa Kỳ mà học hỏi kinh nghiệm thành công hay thất bại của hai quốc gia này đều
là ONE NATION UNDER GOD.
Thế giới Hồi giáo và các quốc gia Ả Rập phải tự hỏi chính
mình xem: - “Chúng ta thực sự muốn gì?”
- “Chủ
trương quá khích và cuồng tín để gây hận thù và bạo lực có thực sự giải quyết
được các vấn nạn của Hồi giáo không?” - “Tại sao Hoa Kỳ là “kẻ thù của
ALLAH” khi mà “kẻ thù ấy” lại xây dựng được một quốc gia Tự Do, Bình Đẳng, Công
Lý và nhân từ, còn chúng ta vẫn ôm ấp như một giấc mơ chưa thành sự thật?” - “Sự hiểu
biết và kiến thức của chúng ta về nước Mỹ có đủ để xác định chính xác xem Hoa
Kỳ là bạn hay thù của Hồi giáo?” - “Chủ trương phát động “Thánh Chiến”
để réo gọi hận thù bạo lực có làm sáng tỏ được ánh sáng văn minh của Hồi giáo
hay chúng ta sẽ làm cho nền văn minh tinh thần của Hồi giáo sụp đổ toàn diện,
có thực sự ALLAH muốn Hồi giáo phát động Thánh Chiến trong hận thù và bạo lực
thật không?” - “Tại sao Thánh Kinh Qu’ran lại có quan niệm
Thánh Chiến là con người phải tự phấn đấu với chính mình để tự thắng, đó là
lời dạy dỗ then chốt nhất của văn minh Hồi giáo, phải chăng không còn ai nhớ
nữa hay sao? Chẳng lẽ chúng ta không đem được những giá trị gì của văn minh Hồi
giáo để đóng góp cho nền văn minh tổng hợp toàn cầu, mà chỉ biết đóng góp hận
thù và bạo lực hay sao? Những người Hồi giáo chúng ta thật sự muốn gì, có phải
chúng ta muốn xây dựng ONE NATION UNDER ALLAH or ONE NATION UNDER MAN? và quốc
gia nào đưa đến Công Lý cho chúng ta?” Trước tình thế căng thẳng và hỗn loạn tột
cùng trong thế giới Hồi giáo, trên đây là một loạt tra vấn quan trọng và cần
thiết mà chỉ có “những người thông minh,
sáng suốt, biết sử dụng sự thông minh sáng suốt và khôn ngoan để biến khung
cảnh sống thành môi trường sáng tạo, cảm thông và thánh thiện” theo đúng tinh
thần Qur’an.
Trong sinh hoạt Bang Giao Quốc Tế, việc phân biệt BẠN –
THÙ là việc hệ trọng nhất của các quốc gia. Trong đó truyền thống ngoại
giao của Hoa Kỳ thường biến THÙ thành BẠN, chưa bao giờ biến BẠN thành THÙ và
Hoa Kỳ không chỉ là ONE NATION UNDER GOD mà là một quốc gia CÔNG LÝ. Đó là
giá trị mà Hoa Kỳ có thể chia sẻ với thế giới Hồi giáo và cả thế giới bởi vì
Hoa Kỳ là những người dân của Thánh Kinh (People of the Book). Văn minh
Dân Chủ Hoa Kỳ thánh thiện và là tập đại thành của văn minh Hy-La và Kito-Do
Thái giáo, đặt trên ba cột trụ khoa học, thần học và triết học nên rất thực tế,
thực dụng nhưng rất lý tưởng, vì thế Hoa Kỳ thực sự là ánh sáng trên đồi cao và
nguồn hy vọng của con người trên mặt đất này. Một quốc gia như thế chẳng
lẽ không xứng đáng làm bạn với thế giới Hồi giáo hay sao? Đối với Thánh Kinh
Hồi giáo đạo đức xã hội và thực hành Công Lý (practical justice) xã hội là giá trị
quan trọng nhất của người Hồi giáo. Từ đó ALLAH muốn Hồi giáo xây nên
những quốc gia của Công Lý bởi vì nước của ALLAH trên Trời là nước của Công Lý và đó cũng
là giá trị mà Hoa Kỳ có thể giúp các quốc gia Hồi giáo xây dựng nên những quốc
gia của Công Lý hay ONE NATION UNDER ALLAH để thỏa lòng khao khát của muôn
triệu dân Hồi giáo và sự trông chờ kỳ vọng của ALLAH đã đưa đến cho tiên tri
Muhammad 1400 năm qua.
ONE NATION UNDER ALLAH or ONE NATION UNDER MAN? Đó là câu
hỏi cần trả lời từ thế giới của Hồi giáo.
IV- LUẬT GIAO ƯỚC VÀ TIÊN TRI
MUHAMMAD
Thánh Kinh Qur’an chấp nhận rằng Ten Commandments là giao
ước của chính họ. Nếu như vậy thì người Hồi giáo phải tuân hành theo đúng Giao
ước mà THIÊN CHÚA đã đưa đến cho dân Do Thái và cho người Hồi giáo đặc biệt là
người Hồi giáo cuồng tín phải lắng nghe các tiên tri đã cảnh cáo những người
không giữ Giao ước sẽ bị trừng phạt như thế nào theo cuốn Catholic Social
Teaching trong Cựu ước đã cho thấy THIÊN CHÚA đã dựng lên một giống dân mà tại
nơi đó con một yêu dấu của THIÊN CHÚA là Đấng Cứu Thế.
THIÊN CHÚA muốn cho con cái của THIÊN CHÚA được sống trong
Tự Do, Bình Đẳng và Công Lý. Qua bàn tay của Moses THIÊN CHÚA đã giải phóng dân
Do Thái ra khỏi ách nô lệ khổ đau tại Ai Cập và đưa họ về với đời sống Tự Do
tại đất hứa (promise land). Sau 40 năm sống lang thang trong sa mạc, tại núi
Sinai, THIÊN CHÚA đã trao luật của THIÊN CHÚA để làm giao ước giữa THIÊN CHÚA
và dân được chọn (chosen people), những luật đó được cô đọng lại trong Ten
Commandments mà những người Kito giáo Việt Nam dịch là MƢỜI ĐIỀU RĂN, nhưng đây là LUẬT
GIAO ƯỚC nên dịch như thế này sẽ mất hết ý nghĩa của Giao ước, lẽ ra nên
dịch là MƢỜI MỆNH
LỆNH TRONG GIAO ƢỚC GIỮA
THIÊN CHÚA VÀ CON NGƢỜI. Vì đây
là luật đã được ký kết và giao ước nên bắt buộc DÂN CHÚA phải tuân hành nếu họ
muốn duy trì giao ước với THIÊN CHÚA, những mệnh lệnh đó là luật đạo đức vĩnh
cửu (Eternal moral code) mà tất cả người dân cũng như quốc gia Do Thái phải giữ
để tạo dựng nên một quốc gia TỰ DO BÌNH ĐẲNG VÀ CÔNG LÝ. Luật đạo đức đó bắt
con người và quốc gia phải thi hành Công Lý (practical justice).
Mỗi khi dân Do Thái không trung thành và không thực hành
giao ước, họ đã thờ lạy tà thần và liên tục sống ích kỷ, tham lam với những
người ngoại quốc, những người khách lạ từ xa tới, những kẻ bất hạnh yếu đuối và
những kẻ nghèo khổ, lúc đó THIÊN CHÚA lại sai các tiên tri đến để cảnh báo họ:
“Hãy rửa sạch bàn tay đẫm máu của các người” “Hãy thanh
lọc và tẩy rửa tâm hồn và hãy tự mình trở thành trong sạch thánh thiện” “Hãy
dừng tay lại đừng làm điều xấu xa tồi bại nữa” “Hãy tìm kiếm Công Lý và chấm
dứt những hành động bạo ngược hung dữ”
“Hãy cư xử công bằng với những kẻ côi cút bất hạnh và an
ủi lo lắng cho các người góa bụa trên đất nước của các ngươi”(Isaiah 1:15-17)
“Các ngươi đã được dặn là phải làm những điều hợp với lẽ phải” (Micah 6:8)
Điều luôn luôn phải nhớ là: nước Trời của THIÊN CHÚA là
nước của Công Lý và THIÊN CHÚA muốn nước của con người cũng phải là những quốc
gia của Công Lý khi họ sống dưới trần gian này.
Theo Thánh Kinh Qur’an tiên tri Muhammad từ 1400 năm qua
đã được ALLAH hay THIÊN CHÚA mặc khải để ông cất lên tiếng nói của sự sáng đối
với thế giới của người Ả Rập theo Karen Armstrong tác giả cuốn Islam cho biết
Muhammad đã đi vào sống trên đỉnh núi Mount Hira nằm giữa Mecca, ở đó ông đã cầu nguyện, ăn chay và bố thí cho
những người nghèo khổ. Từ lâu ông rất lo lắng trước những cơn khủng hoảng của
người Ả Rập với những cuộc ám sát, những cuộc nội chiến và những cuộc xâm lăng.
Các bộ lạc cứ chém giết và tàn hại lẫn nhau triền miên. Nhiều
người cho rằng chủng tộc của họ là những dân lang thang mất lối (the lost
people) đã bị sống kiếp lưu đày muôn đời xa cách với thế giới văn minh và THIÊN
CHÚA đã không ngó ngàng gì tới họ… thế giới Ả Rập vẫn nằm ngoài thế giới văn
minh, họ phải sống với một môi trường khắc nghiệt đó và những người Ả Rập đã
sống mấp mé bờ vực thẳm của đói khát.
Nhưng mọi chuyện đã thay đổi qua một đêm khi Muhammad
thức dậy để thấy mình được truyền một sức mạnh vô song với sức công phá, cuốn
chặt lấy ông cho đến lúc ông nghe được những lời đầu tiên của cuốn Thánh Kinh
mới của Ả Rập dâng tràn trên môi ông. Muhammad đã được THIÊN CHÚA mặc khải. Bức
thông điệp của Muhammad rất đơn giản. Ông đã được dạy giáo lý không có gì mới
về THIÊN CHÚA phần lớn giáo lý được nói về sự tạo dựng vũ trụ của ALLAH và nhân
loại sẽ bị phán xét vào những ngày sau chót, đúng như những người Do Thái và
Kito giáo đã tin tưởng như thế.
Muhammad không nghĩ rằng ông sẽ lập nên một tôn giáo
mới, nhưng ông chỉ đem đến cho dân Ả Rập một tín ngưỡng có sẵn về một THIÊN
CHÚA cho những người Ả Rập, là những người chưa bao giờ có tiên tri. Ông đã quả
quyết rằng thật là sai lầm nếu chỉ xây dựng cuộc sống cho riêng mình, mà phải
biết làm thế nào để chia sẻ sự giàu sang cho mọi người và xây dựng một xã hội
mà ở đó những kẻ yếu đuối và bất hạnh phải được đối xử tử tế và tôn trọng họ. Nếu …
không tu chỉnh lối sống của họ, xã hội của họ sẽ sụp đổ (như một xã hội bất
công trong quá khứ) bởi vì họ đã vi phạm luật lệ của sự sống còn và tồn tại.
Phần đông các tín đồ cũng như Muhammad đều không có học. Thánh Kinh Qur’an đã
được mặc khải cho Muhammad bằng từng câu thơ, từng chương quãng thời gian 21
năm liên tục, thường đưa ra đáp án cho hai cơn khủng hoảng… Một giáo phái mới
sau cùng được gọi là Hồi giáo (tức người vâng phục). Đó là người đã dâng hiến
trọn vẹn đời sống họ cho ALLAH và tuân phục theo mệnh lệnh của THIÊN CHÚA là
con người Hồi giáo phải sống và cư xử với nhau bằng CÔNG LÝ, BÌNH
ĐẲNG và LÒNG NHÂN TỪ. Đó là thái độ vâng phục của người Hồi giáo khi gục mặt
xuống đất để cầu nguyện (Salat). Trước đó đời sống tinh thần của người Ả Rập
quá tăm tối bệnh hoạn, chiến tranh giết chóc liên miên và đầy rẫy bất công xã
hội. Con người chỉ có một THIÊN CHÚA duy nhất và cộng đồng hòa đồng hợp nhất
với nhau. Và cộng đồng đó phải được điều hành trên sự Bình Đẳng và Công Lý.
Thánh Kinh Qur’an đã nhấn mạnh vào những lời trong đó giản
dị như một nhắc nhở tất cả sự thật mà mọi người đều đã biết. Đây là đức tin
nguyên thủy (Promidial faith) đã được thuyết giảng cho tất cả nhân loại bởi các
tiên tri trong quá khứ. THIÊN CHÚA đã không bỏ mặc cho con người sống trong vô
minh tăm tối trước đạo lý của đời sống, THIÊN CHÚA đã gởi những sứ giả
(Messengers) đến với mỗi sắc dân trên khắp mặt đất. Truyền thống Hồi giáo đã
cho biết rằng đã từng có 124.000 tiên tri như vậy là con số tượng trưng cho sự
đông đảo. Tất cả đều đã được đưa đến cho những người dân của họ một sự linh ứng
từ Trời đã làm nên Thánh Kinh, họ có thể bày tỏ những sự thật về tôn giáo khác
nhau của THIÊN CHÚA nhưng tính chất nền tảng thiết yếu đều giống nhau. Bây giờ
vào lúc sau chót THIÊN CHÚA đã gởi đến một tiên tri và cuốn Thánh Kinh Qur’an …
Muhammad không đưa đến những mâu thuẫn với những tiên tri khác
hoặc bắt đầu một đức tin mới, tín ngưỡng mới. Sứ điệp của ông cũng như của
Abraham, Moses, David, Salomon hoặc Chúa Jesus. Thánh Kinh
Qur’an không chỉ đề cập đến những tiên tri mà những người Ả Rập đã biết như
Phật giáo và Ấn Độ giáo, mà cả những thổ dân của Úc Đại Lợi hoặc những người da
đỏ tại Mỹ Châu, Thánh Kinh Qur’an tán thành những nhà hiền triết của họ bởi vì
những hướng dẫn chân chính của tôn giáo là vâng phục, tuân theo Thánh ý của Tạo
Hóa… Giảng dạy về Công Lý, lòng nhân từ và Bình Đẳng đều đến từ một gốc là Trời
cao vì vậy Muhammad không bao giờ kêu gọi những người Do Thái hay Kito giáo
phải chấp nhận Hồi giáo, ngoại trừ họ muốn làm như thế, bởi vì họ đã đón nhận
được những giá trị tuyệt hảo của riêng họ. Thánh Kinh Qur’an đã nhấn mạnh: “không
có vấn đề cưỡng bách trong đức tin và ra lệnh những người Hồi giáo phải tôn
trọng tín ngưỡng những người Kito giáo và Do Thái, đó là
những người được Thánh Kinh Qur’an gọi là Ablal- Kitab thường dịch là people of
the Book. Những người dân của Thánh Kinh hay được coi là dân Chúa. Tuy
nhiên những người Hồi giáo chấp nhận Ten Commandments là giao ước của chính họ
thì nguyên tắc đạo đức trở thành Giao ước của cả ba tôn giáo là Do Thái giáo,
Kito giáo và Hồi giáo. Những người Do Thái trong quá khứ của lịch sử đã xóa bỏ
giao ước giữa họ và THIÊN CHÚA nên đã bị THIÊN CHÚA trừng phạt với bao thảm họa
kinh hoàng như : THIÊN CHÚA không cho mặt Trời chiếu sáng để họ sống trong bóng
tối hay THIÊN CHÚA đã không cho mưa rơi xuống để làm cho hoa màu mà tất cả
người Do Thái trồng trọt phải chết hết, và nếu họ tiếp tục vi phạm luật giao
ước thảm họa chiến tranh và lưu đày chắc chắn sẽ đến với họ. Đây là bài học Thánh
sử mà ngày nay những người dân Chúa và những người Hồi giáo cuồng tín phải học
tại sao Giao ước đã ghi: “ngươi không được giết người” tại sao những người Hồi
giáo cuồng tín lại cổ súy hận thù và bạo lực để giết người khắp nơi. Họ tự nhận
và nhân danh những người Hồi giáo, nhưng người Hồi giáo là gì, khi Thánh Kinh
Qur’an mô tả về người Hồi giáo như sau: “Đó là một con người đã
dâng hiến trọn vẹn đời sống của họ cho ALLAH và tuân phục theo mệnh lệnh của
THIÊN CHÚA, là con người Hồi giáo phải sống và cư xử với nhau bằng CÔNG LÝ,
BÌNH ĐẲNG và LÒNG NHÂN TỪ. Người Hồi giáo đã bày tỏ thái độ vâng phục khi gục
mặt sát mặt đất để cầu nguyện”.
Trên đây là luật giao ước mà Muhammad và những người Hồi
giáo đã kết ước với THIÊN CHÚA để giữ và thực thi trong đời sống của họ nhưng
những nhóm Hồi giáo cực đoan, quá khích và cuồng tín đã vi phạm giao ước và vì
lẽ đó Thánh Kinh Qur’an có nhắc nhở và cảnh cáo như sau: “Nếu họ không tu chỉnh
lại lối sống của họ, xã hội của họ sẽ sụp đổ (như một xã hội bất công trong quá
khứ) bởi vì họ đã vi phạm những luật lệ căn bản của sự tồn tại và sống còn”
V- TẠI SAO CÁC QUỐC GIA Ả RẬP CHƯA
XÂY DỰNG ĐƯỢC NHỮNG VƯƠNG QUỐC CÔNG LÝ
NHƯ THÁNH KINH QUR’AN ĐÃ DẠY?
Theo Tổng Thống Richard Nixon đã viết trong cuốn Beyond
Peace của ông xuất bản năm 1985, những phong trào về nguồn (Islamic Extremist
Fundamentalism ) tại thế giới Hồi giáo rất cực đoan và cuồng tín để chống lại
Hoa Kỳ và Tây Phương. Nhưng số người này chỉ chiếm khoảng 10%, còn lại 90%
người Hồi giáo vẫn sống theo Thánh Kinh Qur’an và khao khát trở thành những con
người Dân Chủ Hồi giáo (Democratic Civilization), trong đó có cả tầng lớp trí
thức và tầng lớp trẻ trong thế giới Hồi giáo. Các phong trào tranh đấu đã bộc
phát trong thời gian gần đây tại Tunisia, Libya, Syria và Ai Cập đã nói lên
khát vọng Dân Chủ của đa số người dân trong thế giới Hồi giáo. Đây chính là làn
sóng Cách Mạng Dân Chủ Đáy Tầng (Grass Roots Democracy), vì các thành phần chủ
lực là lớp trẻ và đại đa số quần chúng đã tranh đấu Tự Do cho chính họ nên còn
gọi là phong trào quần chúng vùng dậy để tranh đấu cho quyền sống và quyền Tự
Do của chính họ.
Từ hai thế kỷ qua thế giới Hồi giáo bị kẹt giữa hai khó
khăn và trở ngại lớn lao đến từ các chế độ quân chủ chuyên chế rồi sau đó là
độc tài quân phiệt như Saddat, Nasse và Mubarak. Các
nhà độc tài quân phiệt thường chủ trương loại bỏ tôn giáo ra ngoài đời sống
quốc gia để chạy theo khuynh hướng thế tục quá độ, họ thường dùng các phong
trào Hồi giáo cực đoan quá khích như một cái cớ để họ tiếp tục duy trì sự độc
tài vì lý do an ninh. Nhưng đa số người dân trong thế giới Hồi giáo, tầng lớp
trí thức trẻ thường được đào tạo tại Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Phương nên họ
rất tôn trọng chế độ Dân Chủ, tiến bộ khoa học kỹ thuật và đường lối giáo dục
tại Hoa Kỳ và Tây Phương. Họ muốn trở thành những con người Dân Chủ Hồi giáo
những họ phải đối mặt với những phong trào Hồi giáo cực đoan và cuồng tín
thường cổ súy hận thù và bạo lực với Hoa Kỳ và Tây Phương. Đây là
những con người khoác áo giáo sĩ để tìm kiếm quyền lực chính trị nên đã lạm
dụng lý tưởng thiêng liêng của Hồi giáo để khai thác trục lợi và tổ chức các
nhóm khủng bố tấn công Hoa Kỳ và Tây Phương. Tất cả các cuộc tranh đấu
của lớp người này không phải vì lý tưởng tôn giáo thực sự nên họ đã diễn dịch
và hướng dẫn con người hoàn toàn sai lạc với tinh thần của Muhammad và Thánh
Kinh Qur’an để tìm kiếm quyền lực của thần quyền và thế quyền.
Nhìn vào thực trạng của thế giới Hồi giáo, con người chỉ
thấy toàn là những xung đột và hận thù. Xung đột giữa các nhóm Hồi giáo cực đoan
và cuồng tín với Tây Phương, xung đột giữa các quốc gia Ả Rập với Do Thái và
xung đột giữa người dân và các chế độ độc tài. Tổng Thống Nixon tiết lộ rằng
những xung đột quân sự không chỉ diễn ra giữa các quốc gia Ả Rập và Do Thái mà
còn những xung đột của các quốc gia Ả Rập với nhau. Syria đã xâm lăng Jordan
vào năm 1970, Iraq đã xâm lăng Iran năm 1980 và xâm lăng Kuwait năm 1990, Libya
đã xâm lăng Chad năm 1980, Xiria đã chiếm Libanon năm 1976. Iran đã cố gắng lật
đổ các chính quyền Dân Chủ bằng cách trợ cấp tiền bạc cho những nhóm khủng bố
tại Libanon, Libya, Marocco, Tunisia và Sudan. Những xung đột giữa các quốc gia
Hồi giáo đã làm chết 1,4 triệu người kể từ năm 1980, nếu đem so sánh trong cuộc
chiến tranh giữa các quốc gia Ả Rập và Do Thái chỉ bị thiệt hại bằng 1/10 tức
khoảng 100 ngàn người chết, chỉ riêng chiến tranh Iraq với Iran đã làm cho 1
triệu người thiệt mạng (trích…).
Tất cả sự kiện trên đã làm cho vùng vịnh Ba Tư trở thành
một nơi bất ổn nhất trên thế giới. Theo nhận định của Tổng Thống Nixon thì Iran
có tiềm năng và nuôi tham vọng làm bá chủ của cả vùng Trung Đông. Iran có 60
triệu dân và kiểm soát 10% số dầu trên thế giới, có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật
hiện đại, Iran có sức mạnh quân sự và kinh tế hơn bất cứ quốc gia nào tại Trung
Đông. Iran có 1 triệu quân sau năm 1988, Iran đã đưa ra chiến lược là xuất cảng
các nhóm Hồi giáo về nguồn quá khích và cuồng tín đi khắp nơi, và Iran cũng là
nơi bảo trợ chính yếu cho các nhóm khủng bố tại Trung Đông. Những tổ chức khủng
bố của Hồi giáo đặt căn cứ chính tại Terahn và October Movement tại Ai cập, họ
thành lập các toán ám sát để loại trừ các nhóm chống đối người Iran tại Âu
Châu.
Hậu quả đưa đến là trong thế giới Hồi giáo ngày nay,
khuynh hướng về nguồn quá khích và cuồng tín chủ trương bạo lực ngày càng gia
tăng để chống đối Hoa Kỳ và Tây Phương cũng như những hoạt động khủng bố gây
chết chóc kinh hoàng khắp nơi và làm cho tình thế càng ngày càng căng thẳng và
bất ổn, đe dọa trực tiếp đến an ninh và Hòa Bình cho các quốc gia Hồi giáo tại
Trung Đông. Đó là tất cả lý do tại sao khối Hồi giáo đã thất bại trong
việc xây dựng những cộng đồng quốc gia
Tự Do, Bình Đẳng Công Lý và Nhân từ như Thánh Kinh Qur’an đã dạy họ từ 1400 năm
qua,nhưng cho đến nay vẫn chưa xây dựng được một quốc gia như thế. Có thể nói
tôn giáo của người Hồi giáo là tôn giáo của đức tin (Religious Faith). Thế giới
Ả Rập vẫn có nhiều những cá nhân sống theo đúng giáo lý của Thánh Kinh Qur’an
đã dạy, nhưng thế giới Ả Rập vẫn chưa xây dựng được một quốc gia có Công Lý.
Những hiện tượng Hồi giáo về nguồn, cực đoan và cuồng tín đã dẫn đến khủng bố
và bạo lực cho thấy đây là những người Hồi giáo sống với đức tin tôn giáo hướng
ngoại (Outwardly Religion)nên họ đánh mất phần tinh túy và cần thiết nhất của
tín hữu Hồi giáo- đó chính là con đường Tâm Đạo mà ALLAH và tiên tri Muhammad
muốn xây dựng cho người Hồi giáo với tâm
hồn trong sạch và thánh thiện của họ để từ đó xây nên một cộng đồng để thực
hành Công Lý và lòng nhân từ của họ (Practical Justice)). Bây giờ thế giới Hồi
giáo, các quốc gia Hồi giáo, các tín hữu Hồi giáo muốn thay đổi và chuyển hóa
thì họ phải thay đổi lương tâm của họ trước, họ phải thấy và họ phải đi về với
con đường Tayammun để tắm gội, thanh tẩy và thánh hóa tâm hồn của họ để thấy
lại CHÂN TÂM (True Conscience)). Bởi vì đấy là nhận định cuả Thánh Kinh Qur’an
(họ thường sống theo lối sống này) đó là hướng ngoại để nhìn ra bên ngoài
(Outwardly) để tin tưởng vào cái này cái nọ nhưng không quy tâm hướng nội để
sống với đời sống sâu thẳm của nội tâm (Inwardly) mà họ không tin tưởng, vì vậy
tâm hồn của họ bị mây mờ che khuất, vì thế cho đến bây giờ họ cũng vẫn chưa
hiểu được (63:3) Tâm hồn của con người đa số đều bị mây mờ che khuất, không chỉ
có Hồi giáo mà hầu như tất cả sáu chính giáo cũng không mấy chú tâm vào con
đường Tâm Đạo.
Từ mấy ngàn năm qa, phần đông giáo lý của các tôn giáo
đã bị hiểu sai lạc rất nhiều. Từ chỗ hiểu sai lạc dẫn đến chỗ diễn dịch sai
lạc, rồi giảng dạy và hướng dẫn sai lạc nên chức năng (function) của tôn giáo
và vai trò của tôn giáo phần đông vẫn chưa chu toàn được. Các tôn giáo cũng đã
không chịu tìm hiểu tường tận giáo lý của nhau, thường chỉ trích và chê bai tôn
giáo của người khác và cho tôn giáo của họ mới là “cao siêu” và mới là “chính
đạo”, còn tôn giáo khác là “tà đạo”. Vì thế các tôn giáo đã kình chống
và xung đột lẫn nhau, trong lúc ấy thì lại có rất ít ai để ý đến tình trạng lạc
đạo rất phổ quát trong tất cả các tôn giáo. Sự sai lạc đầu tiên và trên hết là
các tôn giáo – nói đúng hơn là các tu sĩ và các giáo sĩ trong các tôn giáo – đã
có ít người nhận ra con đường TÂM ĐẠO là một giá trị tuyệt đối (absolute value)
hay một giá trị vô giá (valueless value) chung cho tất cả các tín hữu của sáu
chính giáo, dù đó là Do Thái giáo, Kito giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo
và Khổng giáo. Chỉ có con đường TÂM ĐẠO thì con người mới tìm thấy đâu là VẠN
GIÁO NHẤT LÝ và đâu là tính chất đồng nguyên của lục giáo, để từ đó dẫn đến Hòa
Đồng Tôn Giáo bởi vì tất cả nhân loại chỉ có một người CHA chung là ĐẤNG TỐI
CAO, Đấng đang cai quản cả vũ trụ. Do đó, tất cả các đạo si, thiền sư, thánh
nhân, hiền triết Đông Tây hay những người may mắn có được đời sống tâm linh
tinh thần sung mãn đều không phân chia ta và người, người và ta, tất cả đều từ
một gốc với nhiều tên gọi khác nhau vì ngôn ngữ của các quốc gia khác nhau mà
thôi.
Thời kỳ này là thời kỳ mà tôn giáo gọi là MẠT PHÁP, có
nghĩa là tất cả mọi giá trị tinh thần và tâm linh đã và đang sụp đổ tơi bời
khắp nơi. Đây là một hậu quả mang tính cách lịch sử lớn lao của toàn cầu. Từ
hậu quả đó tự nói lên cho con người thấy rằng, phần đông các tu sĩ, giáo sĩ và
các tín hữu của các chính giáo đều đã đi theo con đường tôn giáo hướng ngoại
(Outwardly Religion) hay tôn giáo cơ cấu (instituttional religion) mà phần đông
đã đánh mất tôn giáo đức tin (Religious Faith). Những
người hướng ngoại trong các tôn giáo, dĩ nhiên là không cảm nhận được sự thiêng
liêng và mầu nhiệm của đời sống tâm linh và tinh thần xuất phát từ nội tâm sâu
thẳm của con người, mà ĐẤNG TẠO HÍA đã sai các tiên tri và các sứ giả của Trời
xuống dưới trần để khai tâm mở trí cho con người, dẫn con người đi về với CHÂN
TÂM của họ. Hậu quả là những người đi theo tôn giáo hướng ngoại thường rất
nghèo nàn về đời sống tinh thần và tâm linh, cũng như đức tin tôn giáo của họ
rất mong manh đặc biệt tại Việt Nam, Trung Hoa và các nước Á Châu lại rất ít ai
chú ý đến con đường tu tâm dưỡng tính.
Tệ hại hơn nữa là những người nhân danh và lạm dụng tôn
giáo để ích kỷ tìm kiếm tham vọng quyền lực chính trị cho riêng họ càng làm cho
tôn giáo mất hết ý nghĩa thiêng liêng của tôn giáo. Tất cả những diễn dịch
Thánh Kinh theo ý riêng của họ làm sao để họ có thể khai thác trục lợi như
những kẻ buôn thần bán thánh đã có không ít trong các tôn giáo. Từ đó không chỉ
làm cho tôn giáo mất hết ý nghĩa thiêng liêng mầu nhiệm mà còn làm cho chủ
nghĩa hoài nghi về tôn giáo ngày càng gia tăng.
Những hoạt động đầy bạo lực của những nhóm Hồi giáo cuồng
tín càng ngày càng làm trở ngại cho các tín hữu Hồi giáo khác không thực hành
được đức tin của họ. Thực hành đức tin và hành động ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI đã xây dựng
cộng đồng quốc gia Dân Chủ Hồi giáo mà 90% trong số 850 triệu người trong thế
giới Hồi giáo đang khao khát và trông chờ. Muốn đạt được điều đó thì Thánh Kinh
Qur’an có nói: “con người là vấn nạn của thế giới,nhưng cũng chính con người là
hy vọng của thế giới con người”. Tất cả mọi ánh sáng dẫn đường và mọi hy vọng
sẽ tỏa ra từ CHÂN TÂM của con người thì công cuộc hòa giải và hòa đồng giữa con
người và ĐẤNG TỐI CAO sẽ thực hiện được cũng chỉ có CHÂN TÂM mới có thể tìm
được sự hòa giải và hòa đồng giữa con người và anh em đồng loại của họ.
Trong khi ấy gian tham, ích kỷ và ghen ghét hận thù mới
chính là kẻ thù của CHÂN TÂM con người, và là kẻ thù của đời sống xã hội. Hồi
giáo gọi là Tayammun tức là thanh lọc, thanh tẩy và thánh hóa, điều đó có nghĩa
là ghen ghét hận thù bám chặt vào tâm hồn và trí tuệ con người làm cho ánh sáng
của tâm hồn bị mây mờ che khuất đi. Khi con người trút bỏ tính gian tham, ích
kỷ và ghen ghét hận thù thì ánh sáng trong tâm hồn và trí tuệ từ từ xuất hiện
để thay đổi chuyển hóa từ tâm gian tham, tâm ích kỷ và tâm ghen ghét hận thù
thành CHÂN TÂM trong sạch, vô tì vết và thánh thiện. Phật giáo nói đồ tể buông
dao thành Phật là như thế. Một con người CHÂN TÂM là một con người vô cùng cao
quý là lý tưởng bởi vì họ là con người của TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, CÔNG LÝ và NHÂN
TỪ. Có CHÂN TÂM là một có ánh sáng vì thế chúa Jesus muốn tất cả các Kito hữu
phải là ánh sáng của thế gian và vì THIÊN CHÚA là ánh sáng.
Đối với những người thực hành đức tin (Practical Faith)
thực hành lý tưởng của đạo lý (Practical Divine Way) là những người đem CHÂN
TÂM của họ vào sống với tha nhân tức là những người đem đạo vào đời. Đem đạo
vào đời không gì cần thiết và quan trọng hơn là đem đạo lý của Trời vào thế
giới chính trị hoặc đem đạo lý của Trời vào phát triển văn hóa và phát triển
lịch sử. Đạo lý của Trời đơn giản chỉ là luật thiên nhiên trong Trời đất
(natural law) để biến chính trị thành chính trị có đạo lý nên mới gọi là chính
trị vương đạo (Political Idealism) Vấn đề tách tôn giáo ra khỏi chính trị
(separation of church and state) từ lâu đã bị hiểu lầm cực kỳ nguy hiểm ở khắp
mọi nơi và ở khắp chính giáo bởi vì Church (là giáo hội) và là tôn giáo cơ cấu
(institutional religion) hay tổ chức tôn giáo. Có nghĩa là phải tách giáo hội
hay tổ chức tôn giáo hoặc cơ cấu tôn giáo ra khỏi chính quyền là đúng và phải
như thế, nhưng nếu tách tôn giáo đức tin và đạo lý ra khỏi chính trị thì sẽ
thành thảm họa lớn. Chính trị không có đạo lý tức không có luật lệ thiên nhiên
hay chính trị đi ngược lại với luật thiên nhiên trong Trời đất thì chính trị sẽ
trở thành bá đạo (devilish politics) (như con người đã thấy trong các chế độ
chuyên chế và các chế độ độc tài cũng như con người và xã hội sống có đạo lý là
sống theo luật lệ thiên nhiên trong vũ trụ. Sống theo thiên nhiên và sống theo
đạo lý là sống có CHÂN TÂM. Con người ra sao thì xã hội như thế. Một xã hội
được xây dựng bởi những con người có CHÂN TÂM thì xã hội mà họ xây dựng nên
chắc chắn là xã hội có Tự Do, Bình Đẳng, Công Lý và nhân từ. Bởi vì cây nào thì
quả ấy – đó là luật thiên nhiên. Từ những căn bản đó và những sự
thật đó, để xét đoán lại thực trạng của các quốc gia Ả Rập trong thế giới Hồi
giáo, thì sẽ thấy tại sao vùng vịnh BA TƯ là một vùng bất ổn nhất trên thế
giới, trong khi Trung Đông là mảnh đất mầu nhiệm và thiêng liêng nhất thế giới,
ở đó THIÊN CHÚA đã hiện ra ba lần để đem luật lệ của Trời đất đến cho thế giới
con người để giúp con người xây nên những quốc gia trong sạch thánh thiện và
Công Lý để con người sống Hạnh Phúc và Thanh Bình An Lạc bên nhau, THIÊN CHÚA
muốn các dân được chọn và được mục khải thực hành đức tin của họ và truyền đạt
những mệnh lệnh và luật lệ của Trời cao đến các quốc gia trên khắp thế giới. Từ đó giáo
lý và luật lệ của Do Thái giáo, Kito giáo và Hồi giáo được truyền bá đi khắp
mọi nơi trên mặt đất, nhưng mọi xây dựng vẫn thành tựu trên mức độ cá nhân,
chưa đạt đến mức độ quốc gia. Và ngày nay thế giới Hồi giáo vẫn là mảnh đất đầy
xung đột và hận thù đang lan tỏa ra khắp mọi nơi.
Tại sao Trung Đông là một mảnh đất được chính THIÊN CHÚA
coi là Đất Thánh và Jerusalem được mô tả là Đô thị của THIÊN CHÚA mà chính
Muhammad đã căn dặn các tín đồ Hồi giáo của ông mỗi khi cầu nguyện phải hướng
về Jerusalem. THIÊN CHÚA muốn nhìn thấy dân Chúa đã chọn trở thành những con người
thánh thiện và một quốc gia thánh thiện (Holly nation) nhưng con người sẽ không
trở thành thánh thiện được nếu con người đánh mất CHÂN TÂM của họ. Đã đến lúc
tất cả những con người chủ trương sống với đời sống tôn giáo hướng ngoại phải
thấy rằng sống như thế sẽ chẳng bao giờ thấy được khuôn mặt ngàn đời của chính
mình (Phật giáo gọi là bản lai diện mục) và sẽ sống xa rời với sự thật và chẳng
bao giờ tìm được chân lý hay THIÊN CHÚA ngoài CHÂN TÂM của con người.
Vì thế vấn nạn của mảnh đất đầy hận thù tại Trung Đông là
vấn nạn của tôn giáo hướng ngoại như Thánh Kinh Qur’an đã cảnh cáo con người.
Càng hướng ngoại thì càng sống xa lạ CHÂN TÂM của chính mình, xa lạ với ánh
sáng, xa lạ với tình yêu thương, xa lạ với THIÊN CHÚA và xa lạ với đồng loại
anh em. Đó là tất cả lý do mà thế giới
Hồi giáo đã thất bại trong việc xây dựng một cộng đồng Hồi giáo theo đúng tinh
thần mà ALLAH cũng như tiên tri Muhammad đã hướng dẫn họ trong Thánh Kinh
Qur’an. “Bình Đẳng, tình huynh đệ và Tự Do” là lời giảng nền tảng của Thánh
Kinh Qur’an. Đó là cuốn sách được truyền bá từ THIÊN CHÚA, ĐẤNG TẠO HÍA, người
cha đã ban cho tất cả sự sống và nuôi dưỡng và là Đấng cai quản vũ trụ, đưa dắt
con người đến chỗ hoàn hảo và đến với những lời dạy của THIÊN CHÚA từ đó chúng
ta sẽ tìm kiếm con đường đi đến sự hòa đồng hợp nhất với tất cả nhân loại, đưa
đến tình yêu thương giữa anh em đồng loại trong thế giới con người, không còn
phân cách chia lìa vì màu da, đẳng cấp, xứ sở, ngôn ngữ và chức tước, phẩm
trật… Tinh thần và ánh sáng của Thánh Kinh Qur’an tuyệt vời biết bao vì đây
cũng là lời dạy của Ten Commandments trong Cựu ước.
Những người nắm quyền hành chính trị từ các chế độ quân
chủ chuyên chế và sau đó là độc tài quân phiệt và bây giờ là phong trào về
nguồn quá khích cuồng tín đã nhân danh Hồi giáo và ALLAH để phát động Thánh
Chiến chống lại Hoa Kỳ và Tây Phương. Nhưng khi họ cổ súy bạo lực và hận thù
thì họ đã vi phạm trầm trọng Giao ước và Giáo lý của Thánh Kinh Qur’an , họ cho
rằng Hoa Kỳ là “kẻ thù của ALLAH” nhưng ai mới thực sự là kẻ thù của ALLAH và
ai là con cái của THIÊN CHÚA? Hoa Kỳ là kẻ thù của ALLAH hay Hoa Kỳ là kẻ thù
của những người Hồi giáo đang nuôi tham vọng bành trướng và tham vọng bá chủ để
thống trị các quốc gia Hồi giáo tại Trung Đông và đe dọa nền Hòa Bình của thế giới
?. Thánh Chiến thực sự là gì, và quan niệm về Thánh Chiến của những kẻ cuồng
tín trong thế giới Hồi giáo có phù hợp với quan niệm Thánh Chiến của Muhammad
và Thánh Kinh Qur’an không? Hoa Kỳ có thực sự hiểu thế giới Hồi giáo là gì
không? Và thế giới Hồi giáo có hiểu Hoa Kỳ là một quốc gia phát xuất từ đâu và
quốc gia này muốn gì? Vấn đề tôn giáo và chính trị của các quốc gia Hồi giáo
rồi đây sẽ được giải quyết ra sao? Vùng đất “thánh” của Trung Đông có thể xây
dựng được Hòa Bình và An Lạc không? Tất cả mọi hận thù và xung đột tại Trung
Đông xuất phát từ đâu và đâu là hy vọng cho tương lai? Tại sao thế giới Hồi
giáo chưa xây dựng được thế giới của Công Lý như ALLAH đã dạy họ? Đó là những
câu hỏi mà tất cả những người Hồi giáo phải tự tìm lấy câu trả lời cho chính
mình và cho thế giới Hồi giáo nếu họ muốn xây dựng nên một cộng đồng đúng như
Thánh Kinh Qur’an đã dạy.
VI- QUAN NIỆM THÁNH CHIẾN CỦA THÁNH
KINH QUR’AN VÀ CỦA NHÓM CUỒNG TÍN KHÁC
BIỆT NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Theo Thánh Kinh Qur’an cho biết: “những người đi theo tôn
giáo hướng ngoại, tâm hồn của họ bị mây mờ che khuất, vì thế cho đến nay họ vẫn
chưa hiểu được” (63:3). Cũng theo Thánh Kinh Qur’an thì một người Hồi giáo chân
chính nhất là một người có cuộc sống trong sạch, trong sáng và thánh thiện (A
pure life) để từ đó tâm hồn và trí tuệ bừng lên một ánh sáng, Phật giáo gọi đó
là huệ nhãn hay linh nhãn. Tất cả những người Hồi giáo đều biết chữ Tayammun,
có nghĩa là tắm gội gột rửa cả thân xác và tâm hồn, nhưng tắm gội tâm hồn mới
là phần chính yếu. Những tín hữu của tất cả sáu chính giáo, kể cả các tín hữu
Hồi giáo phần đông đi theo khuynh hướng tôn giáo hướng ngoại (Outwardly
religion) nên họ đã đánh mất hẳn việc tắm gội gột rửa thanh sạch tâm hồn của
họ, đặc biệt cũng có nhiều tu sĩ giáo sĩ đã quên việc tắm gội tâm hồn của họ
nên cũng bị mây mù che khuất vì họ cũng đi theo tôn giáo hướng ngoại, mũ áo
xuênh xang ở bên ngoài nhưng họ không chịu tìm kiếm vẻ rực rỡ linh thiêng trong
đáy hồn sâu thẳm của họ. Sự lạc đạo (heresy) của con người thật đơn giản là con
người đi theo tôn giáo hướng ngoại – bởi vì ánh sáng đạo lý của THIÊN CHÚA, của
ALLAH, của Thượng đế, của Tạo Hóa có tỏa ánh sáng được là tỏa ra ánh sáng trong
tâm hồn của con người mà thôi. Xưa các nhà hiền triết Đông Phương
thường nói: Đạo bất hoằng nhân, nhân năng hoằng đạo (đạo không làm sáng con
người, chính con người làm sáng đạo). Vì hướng ngoại con người không tìm thấy
những mầu nhiệm linh thiêng trong cuộc sống cũng như trong đời sống tôn giáo và
đức tin. Tôn giáo hướng ngoại rất tai hại và nguy hiểm vì bản tính của con
người thường rất yếu đuối, nhưng những ham muốn của bản năng đầy thú tính nơi
con người lại rất mạnh mẽ. Vì lẽ đó tất cả các chính giáo đã đem Thánh Kinh và
giáo lý để khai tâm mở trí cho con người để có sức mạnh và ánh sáng trong đời
sống tinh thần và tâm linh của họ. Con người phải tự phấn đấu với chính những
ham muốn của bản năng đầy thú tính của họ để tự giải thoát mình hầu tìm lại
được CHÂN TÂM, chân ngã của mỗi người.
Đây mới thực sự là cuộc THÁNH CHIẾN.
Mỗi người tự chiến đấu với chính mình và tự thắng lấy
chính mình là hành trình của cuộc Thánh Chiến mà các tôn giáo muốn cho con
người đi vào cuộc chiến đấu thiêng liêng đó. Con người thường nhìn ra bên ngoài
để tìm kiếm kẻ thù, và thường quên đi một thứ kẻ thù cực kỳ mạnh mẽ đầy quyền
năng và vô cùng nguy hiểm là bóng tối âm u đang bao phủ tâm hồn và trí tuệ của
họ và bóng tối u ám đó xuất phát từ lòng tham dục của con người.
Trong phần giới thiệu Thánh Kinh Qur’an có viết rằng: “Một
quan niệm sai lầm khủng khiếp nhưng lại rất phổ quát, đặc biệt là những người
Kito giáo đã rao giảng bởi một số nhà truyền giáo mang tính chất đố kỵ, về cái
nhìn với bổn phận của các cuộc Thánh Chiến trong Hồi giáo. Ngay cả những nhà
nghiên cứu lừng lẫy của Tây Phương cũng đã thiếu sự cẩn trọng để tra cứu tự
điển của người Ả Rập hoặc tìm kiếm Thánh Kinh Qur’an để tìm hiểu ý nghĩa của
hai chữ Thánh Chiến. Chữ Jihad theo từ điển của Ả Rập có nghĩa là sử dụng hay
đi vào hành động với sức mạnh sâu thẳm, những nỗ lực, cố gắng để phấn đấu với mục
tiêu đã chọn. Một điều cần nhớ là – một là phấn đấu với kẻ thù hữu hình xấu xa,
hai là phấn đấu với chính mình. Tất cả ý nghĩa này đã dùng trong Thánh Kinh
Qur’an khi đề cập đến hai chữ Thánh Chiến.
Bổn phận của Thánh Chiến khác biệt sâu xa với chiến tranh
và ý nghĩa Thánh Chiến (Holly war) do các học giả Tây Phương đã viết đã không
biết đến ý nghĩa của Ả Rập và những lời dạy căn bản của Thánh Kinh Qur’an. Đối
với truyền thống tiên tri của Hồi giáo thì cuộc hành hương vĩ đại khi đi đến
Mecca cũng được coi như là Jihad. Sự cho phép chiến đấu trong một hoàn cảnh nào
đó, không dính dáng gì đến sự dùng vũ lực và chưa có lần nào Hồi giáo cho phép
dùng bạo lực cho việc tuyên xưng đức tin. Xin nhắc lại một lần nữa, Thánh
Kinh Qur’an viết rằng hãy chiến đấu kiên cường mạnh mẽ với sự gian tham của cải
vật chất của các người và hãy tự chiến đấu với chính mình vì chính nghĩa của
ALLAH” (9:41) Trong một đoạn khác Thánh Kinh Qur’an còn khuyên nhủ: “Hãy
chiến đấu mạnh mẽ để chống lại những kẻ thù của Hồi giáo, những kẻ vô thần
không tín ngưỡng với sự trợ giúp của Qur’an đó là tất cả lý lẽ và luận điểm của
một cuộc chiến đấu đầy quyền năng” Đây là hành trình truyền bá Thánh Kinh hay
truyền bá phúc âm đến với thế giới vô minh và vô đạo của con người để giúp họ
tìm thấy đạo lý, sự thật và sự sống mà ĐẤNG TẠO HÓA muốn đem đến cho tất cả
loài người. việc làm này cũng mang ý nghĩa Thánh Chiến. Thêm vào đó Thánh Kinh
Qur’an còn nói lên ý muốn của THIÊN CHÚA như sau với ý nghĩa của Thánh Chiến:
“THIÊN CHÚA trông chờ vào chúng ta với một cuộc Thánh Chiến để chống lại linh
hồn của chính mỗi chúng ta, chống lại sự thôi thúc của bản ngã, ở đó đã luôn
luôn thúc giục chúng ta làm những việc xấu xa lầm lạc. THIÊN CHÚA không cho
chúng ta bất cứ một phép tắc nào để sử dụng bất cứ một thứ vũ lực nào để cấm
cản người khác trong việc thờ lạy hay họ đến với Giáo Hội, Hội Đường hoặc Đền
thờ, mà ở nơi đó Thánh danh của THIÊN CHÚA được vinh danh” (2:114). Cuối cùng
Thánh Kinh Qur’an còn nói rõ hơn:
“Cuộc chiến đấu trên danh nghĩa của ALLAH với những kẻ đã
đánh các ngươi và bách hại các ngươi nhưng không được vi phạm tội hiếu chiến
hận thù, chắc chắn ALLAH không thể yêu thương kẻ hiếu chiến” “Bởi vì họ phá bỏ
Giao ước của họ và chối bỏ những THÔNG ĐIỆP của ALLAH và có sự thù nghịch với
các tiên tri mà không có lý do chánh đáng và họ nói “tâm của chúng tôi chưa
được cắt bì và vì thể không thể nghe được”. ALLAH đã đặt dấu ấn trong tâm của
họ nhưng họ đã đánh mất niềm tin của họ, dù họ có tin nhưng niềm tin quá mong
manh” (4:155) Từ những giáo lý trích ra từ Thánh Kinh Qur’an cho thấy Hồi giáo
cũng như Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Kito giáo, Phật giáo, Khổng giáo đều kêu gọi
con người và các tín hữu phải QUY TÂM HƢỚNG NỘI để tìm kiếm ALLAH, THIÊN CHÚA, Thượng đế, Tạo Hóa
hay Phật để thờ lạy và cầu nguyện. Xưa Chúa Jesus có lần nói với Herod rằng:
“vương quốc của ta không ở chốn trần gian này nhưng vương quốc của con người là
vương quốc hữu hình (Visible Kingdom) vương quốc của THIÊN CHÚA là vương quốc
vô hình (Invisible Kingdom). Như vậy vương quốc của THIÊN CHÚA là vương quốc
của tinh thần (spiritual world) hay còn gọi là vương quốc tâm linh. Con người
đến trần gian để sống trong vương quốc hữu hình nhưng đời sống tinh thần và tâm
linh của con người cũng là vương quốc vô hình và vương quốc ấy cũng đồng thanh
tương ứng với vương quốc của THIÊN CHÚA, nếu con người còn giữ được CHÂN TÂM
của họ. Vì thế tất cả sáu chính giáo đều đưa ra giáo lý và kinh điển để
hướng dẫn và giáo hóa con người làm sao để duy trì, bảo vệ và thăng hoa đời
sống tinh thần và tâm linh của con người. Do đó đời sống tôn giáo
phải là đời sống tôn giáo hướng nội để tìm kiếm trong tâm hồn sâu
thẳm của chính mình và tìm kiếm ALLAH, THIÊN CHÚA, Phật hay Tạo Hóa. Vì đây là
vương quốc tinh thần và tâm linh cũng vô hình vô ảnh nên tìm kiếm THIÊN CHÚA ở
thế giới hữu hình thì không bao giờ tìm được. Tôn giáo hướng ngoại đã làm cho
con người sống xa lạ với chính vương quốc tinh thần và tâm linh của họ, xa lạ
với ALLAH, Thượng đế, Phật hay Tạo Hóa mặc dù con người vẫn có đức tin, nhưng
vì không đi vào con đường Tâm Đạo để tìm kiếm CHÂN TÂM sâu thẳm và vì thế đức
tin quá mong manh. Tất cả các chính giáo đều cho đó là bức màn vô minh nên con
người không thấy được sự thật và đạo lý.
Tất cả các bậc tiên tri hay các sứ giả được Trời sai xuống
để giúp con người trong các chính giáo để phá đổ bức màn vô minh đó, bức màn mà
Thánh Kinh Qur’an gọi là mây mù che khuất. Nhưng con người phải tự phấn đấu với
chính cái tâm hồn u ám của mình, và mỗi người phải tự đốt đuốc lên mà đi để
giải phóng mình ra khỏi thế giới vô minh đó, để tự cứu lấy chính mình và tìm
lại ánh sáng trong tâm hồn.
Hồi giáo gọi đó là cuộc Thánh Chiến đúng nghĩa nhất. Tự
thắng mình là một cuộc chiến thắng gian nan và khó khăn nhất. Vì thế mới gọi là
Thánh Chiến. Cuộc Thánh Chiến thứ hai chính là ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI.
Từ căn bản cốt yếu đó con người có thể nhìn vào các cuộc
Thánh Chiến của phong trào Thánh Chiến quá khích và cuồng tín tại Trung Đông
chẳng có ý nghĩa gì cả, mặc dù họ nhân danh Hồi giáo. Họ đã gieo rắc khủng bố
và sử dụng bạo lực khủng khiếp nhất, tàn bạo nhất – khi mà trong GIAO ƢỚC giữa THIÊN CHÚA và những người Hồi
giáo đã ghi rõ “ngươi không được giết người”.
Và tất cả những hành động lái máy bay để lao vào tòa nhà
Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế tại New York 2001 đã tạo ra một bi kịch kinh hoàng
nhất, và những cuộc ôm bom tự sát hàng loạt tại các Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Iraq,
Afghanistan hay Pakistan thật quá kinh hoàng và sợ hãi, trong thế giới con
người đã có quá nhiều tai ương và thống khổ. Những nạn nhân bị sát hại bởi bàn
tay của những người Hồi giáo cuồng tín có thật sự là kẻ thù cua họ hay không
hay đều là nạn nhân vô tội?
Dân số Hoa Kỳ có gần 300 triệu trong đó có 7 triệu người
Hồi giáo đang sống lương thiện cần mẫn, sùng đạo, sống Thanh Bình, An Lạc và
Hạnh Phúc tại Hoa Kỳ, chẳng lẽ cũng là kẻ thù của nhóm Hồi giáo cuồng tín hay
sao? Tại sao lại nói Hoa Kỳ là “kẻ thù của Hồi giáo”, khi Hoa Kỳ là
một quốc gia do Chúa giúp để dựng nên: ONE NATION UNDER GOD, bởi vì
Hoa Kỳ là một quốc gia mà chính tiên tri Mohamet và ALLAH đã muốn những người
Hồi giáo xây dựng nên từ 1400 năm qua. Hoa Kỳ là một quốc gia đã xây dựng được
một thế giới Tự Do, Bình Đẳng Công Lý và Lòng Nhân Tu không chỉ cho riêng mình
và cho cả thế giới. Thực tế cho thấy Hoa Kỳ là một quốc gia mẫu mực lý tưởng
nhất cho thế giới Hồi giáo, bao gồm cả Do Thái cũng như tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới đều phải quay về Hoa Kỳ mà học hỏi, nếu họ muốn xây dựng nên
một quốc gia tốt đẹp như thế. Những nhóm Hồi giáo quá khích cuồng tín không thể
viện dẫn lý do tôn giáo và tín ngưỡng để coi Hoa Kỳ là kẻ thù của họ, ngoại trừ
tham vọng chính trị của họ muốn làm bá chủ cả vùng Trung Đông. 1. Cứu cánh tối
hậu của Hồi giáo là gì?
Có phải cứu cánh tối hậu của mọi tín ngưỡng và mọi tôn
giáo cũng như của Hồi giáo là xây dựng nên những xã hội Tự Do, Bình Đẳng Công
Lý và lòng nhân từ cho con người khi họ còn sống dưới trần gian này? 2. Cứu
cánh của Thánh Chiến theo lời dạy của ALLAH và Thánh Kinh Qur’an là gì?
Phải chăng là một cuộc chiến đấu để con người chiến thắng
cái tâm gian tham, tâm ích kỷ và tâm hận thù, tâm đang bị mây mù che khuất để
tìm lại ánh sáng CHÂN TÂM và trở thành những con người của Tự Do, Bình Đẳng
Công Lý và lòng nhân từ cho cộng đồng Hồi giáo để làm thỏa lòng trông chờ của
THIÊN CHÚA, để Ả Rập và Do Thái sống bên nhau, sống vì nhau và sống cho nhau
cũng như anh em của dòng tộc Abraham và đóng góp vào việc xây dựng Hòa Bình
không chỉ cho vùng Trung Đông mà cho cả thế giới có phải đây mới thực sự là
Thánh Chiến của Hồi giáo và là Thánh Chiến của tất cả các chính giáo dù đó là
Kito giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo và Khổng giáo?
Từ những sự thật đó con người thử nhìn lại những hoạt động
khủng bố của các tổ chức Hồi giáo cực đoan và cuồng tín khắp nơi trong thế giới
Ả Rập để thấy cứu cánh của các tổ chức này là gì, có phải họ muốn làm bá chủ
của vùng Trung Đông không? Làm bá chủ rồi thì họ làm gì nữa? Bởi vì những tổ
chức này đã và đang cổ súy hận thù và bạo lực ngùn ngụt khắp nơi để giết người
và gây đau thương tuyệt vọng cho bao triệu người khác thì họ sẽ xây nên một thế
giới đầy hận thù và bạo lực như thế. Hận thù có thể nào khai sinh ra tình yêu
thương được không? Và bạo lực có thể nào đưa đến Thanh Bình, Hạnh Phúc cho
người dân Ả Rập được không? Nếu câu trả lời là không – thì hành động cuồng tín
để réo gọi hận thù và bạo lực của các tổ chức khủng bố Hồi giáo chắc chắn không
thuận lòng ALLAH và cũng chẳng được lòng người.
Những tổ chức Hồi giáo quá khích và cuồng tín tại Trung
Đông có thể không chịu nghe ai, nhưng họ phải lắng nghe tiếng réo gọi vô ngôn
âm thầm của THIÊN CHÚA, của ALLAH, của Muhammad, của bao trăm triệu người dân Ả
Rập và lắng nghe lại tiếng réo gọi của lương tâm chính họ và nghe lại
cuốn Thánh Kinh Qur’an mà họ đang cầm trên tay.
Hãy buông bom xuống như một hành động đồ tể buông dao để
thành Phật ,bởi vì trong Giao ước giữa THIÊN CHÚA và người Hồi giáo có ghi
“ngươi không được giết người”.
Trong Thánh Kinh Qur’an còn ghi thêm rằng: “THIÊN CHÚA
trông chờ vào chúng ta với cuộc Thánh Chiến để chống lại linh hồn của chính
chúng ta, chống lại …., sự thôi thúc của bản ngã ở đó luôn luôn thúc giục chúng
ta làm những chuyện xấu xa lầm lạc” (trích 25:52) Và một người Hồi giáo chân
chính là một người có một đời sống trong trắng và thánh thiện (A pure life). Từ
những lời dạy của ALLAH và của Thánh Kinh Qur’an đã đủ để cho mọi người thấy
rằng những tổ chức Hồi giáo quá khích và cuồng tín xúi giục những thanh niên
trẻ ôm bom tự tử để tự tìm đến cái chết quá bi thương và quá khủng khiếp cho
chính họ và bao người hoàn toàn vô tội khác ở khắp mọi nơi để được cứu rỗi và để
được vào nước Trời hay sao? Thực tế là tất cả những nạn nhân bị
giết bởi nhóm khủng bố chưa bao giờ thực sự là kẻ thù của người Hồi giáo. Mục tiêu
thù hận không thể mơ hồ như thế này được và những người tự sát sẽ chẳng bao giờ
được vào nước của ALLAH bởi nước của ALLAH là nước của Công Lý không có chỗ cho
những con người có những hành động bất công vào sống trong đó.
Và vì Thánh Kinh Qur’an đã nói rất rõ “nhưng (chỉ có một
con người được cứu rỗi) khi người đó tìm đến với ALLAH bằng tâm hồn trong sạch
thanh khiết và thánh thiện” (26:89) Ngoài ra tinh thần Hồi giáo còn đưa ra thêm
một nhận định như sau: “Những xung đột xâu xé trong khung cảnh quốc tế cũng
khởi đi từ những gian tham vô độ của một số lãnh tụ quốc gia hoặc nhóm người
với những ghen ghét, thù hận để bảo vệ ích kỷ cho riêng họ đã chia rẽ con
người”
Từ đó cho thấy những ghen ghét hận thù là những nhóm người
nào đây? Tại sao họ lại nhân danh tôn giáo và phát động Thánh Chiến để xúi giục
con người tàn sát con người, xúi giục con người chống lại con người, đó có phải
thật sự là tinh thần của Hồi giáo không? Hồi giáo, Kito giáo, Do Thái giáo, Ấn
Độ giáo và Khổng giáo đều cổ súy tình thương giữa người và người hoặc con người
lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù. Tại sao các phong trào Hồi giáo cuồng tín tại
Trung Đông lại cổ súy hận thù và lại đem hận thù để xóa bỏ tình thương giữa
người và người? Phải chăng đây là sự khác biệt quá sâu xa về quan niệm Thánh
Chiến giữa ALLAH, Thánh Kinh Qu’ran và quan niệm Thánh Chiến của các nhóm khủng
bố tại Trung Đông. Một bên là tình yêu thương giữa người và người và một bên là
hận thù giữa người và người. Một bên là Tự Do, một bên là độc tài nô lệ. Một
bên là Công Lý và một bên là bất công. Một bên là đạo lý và một bên là lạc đạo.
Một bên là CHÂN TÂM và một bên là ác tâm. Một bên là tôn trọng con người và sự
sống của con người và một bên là chà đạp lên sự sống và tước đoạt sự sống của
con người.
Cuối cùng mọi người phải chấp nhận một sự thật là Thánh
Chiến là tự chiến đấu với chính linh hồn luôn luôn thúc giục con người làm
những điều xấu xa lầm lạc, và Thánh Chiến là xây dựng được những cộng đồng có
Tự Do Bình Đẳng Công Lý và tình thương để con người sống Tự Do An Lạc và Hạnh
Phúc bên nhau. Đó là sự trông chờ của ALLAH nơi tất cả con người. Điều này tất
cả người Hồi giáo đều đã biết.
VII- TRƯỚC MỘT THẾ GIỚI ĐẦY HẬN THÙ
VÀ HIỂM HỌA CHIẾN TRANH QUỐC GIA NÀO
XỨNG ĐÁNG LÀ ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG VÀ HY
VỌNG CHO TOÀN THẾ GIỚI?
Sau đây là 21 câu hỏi mà cộng đồng toàn cầu cần tìm lấy
câu trả lời. 1. Quốc gia nào có đủ thiện chí, ý chí, năng lực, tài năng và
phương tiện để bảo vệ an ninh cho rất nhiều quốc gia trên thế giới khi quốc gia
của họ phải đối đầu với tham vọng bành trướng và mộng bá chủ tại các khu vực Âu
Châu, Á Châu Thái Bình Dương và Trung Đông? 2. Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện
chí, năng lực, tài năng và sức mạnh đạo đức để trở thành người trung gian khéo
léo giúp các quốc gia đi đến thỏa hiệp lúc họ có những xung đột hay chiến tranh
tàn khốc giữa các quốc gia với nhau?
3. Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện chí, năng lực và tài
năng để khuyến khích, cổ vũ trợ giúp cho bao tỷ người dân đang đứng lên tranh
đấu cho khát vọng Tự Do và Dân Chủ của họ đang dân tràn trên toàn thế giới,
đồng thời sẵn sàng giúp họ xây nên những quốc gia Tự Do, Cởi Mở, Bình Đẳng và
Công Lý để được sống trong phồn vinh và Thanh Bình, An Lạc? 4. Quốc gia nào có
đủ ý chí, thiện chí, năng lực, sức mạnh quân sự kinh tế và uy danh để giúp cho
cả thế giới xây dựng Hòa Bình, duy trì Hòa Bình và bảo vệ Hòa Bình trên toàn
thế giới? 5. Quốc gia nào có một lực lượng quân đội hùng mạnh nhất trên thế
giới cả về hải – lục – không quân để đóng quân trên gần 100 quốc gia khắp thế
giới không phải để gây chiến tranh hay tham dự chiến tranh, mà lực lượng quân
sự này sẵn sàng có những cuộc hành quân nhan dao đại quy mô để cứu vớt và để
trợ giúp thực phẩm, y tế, thuốc men và quần áo cho tất cả nạn nhân của chiến
tranh, những thảm họa trong thiên nhiên như bão tố, động đất, sóng thần, dịch
bệnh, đói kém hay bị đủ thứ tai nạn trên toàn thế giới?
6. Quốc gia nào đã từng giúp đỡ các quốc gia kể cả các
cường quốc từ Đông qua Tây xây dựng nên được 111 quốc gia đân chủ trên toàn thế
giới cũng như giúp phục hồi và phát triển kinh tế như cho vay tiền, cung cấp
mọi loại cố vấn, mở cửa thị trường bao la, huấn luyện, giáo dục và chuyển giao
khoa học kỹ thuật cho các quốc gia ấy? 7. Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện chí
và phương tiện để viện trợ quân sự, kinh tế, tài chánh cho tất cả quốc gia
nghèo khó hay cần phải có viện trợ?
8. Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện chí, năng lực và khả
năng để giúp đỡ các vùng như Âu Châu, Á Châu Thái Bình Dương và vùng vịnh Ba Tư
tại Trung Đông để lập nên các tổ chức liên minh quân sự và chính trị như Nato,
Cento và Seato để bảo vệ an ninh, ổn định và Hòa Bình trên các khu vực ấy. 9.
Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện chí, năng lực và tài năng cũng như phương tiện
để giúp cho cả thế giới xây dựng nên Liên Hợp Quốc, để tranh đấu cho nền Đôc
Lập quyền tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ
cho gần 70 Quốc gia đang bị các đế quốc Thực dân Tây phương chiếm đóng và đô hộ
, cũng như viết lên bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và viết luôn bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền để bảo vệ nhân quyền cho cả gia đình nhân loại? 10. Quốc gia
nào có đủ thiện chí và khả năng để cung cấp phần lớn ngân khoản cho Liên Hợp
Quốc và các tổ chức quốc tế khác có khả năng tài chánh hoạt động trên mọi lãnh
vực và trên toàn thế giới? 11. Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện chí, khả năng để
cung cấp tất cả những khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất cho các quốc gia muốn
hiện đại hóa và phát triển trên mọi phương diện? 12. Quốc gia nào có đủ ý chí,
thiện chí và sức mạnh của đạo đức và Công Lý để xây dựng nên các tòa án quốc tế
như Strabourg, Nuremberg, La Haye, để xét xử các tội phạm chiến tranh và các
tội ác chống lại loài người trên toàn thế giới?
13. Quốc gia nào có đủ sức mạnh tinh thần, đạo đức và Công
Lý, có đủ lòng bao dung độ lượng, đủ tình thương bao la với anh em đồng loại để
đối xử với các quốc gia tư thù của mình trở thành bạn bè thân thiết khi các
quốc gia đó đã ngã gục trong chiến tranh như Đức, Ý, Nhật, Liên Bang Xô Viết
hay các quốc gia cộng sản khác trên toàn thế giới? 14. Quốc gia nào đã mở rộng
vòng tay đạo đức nhân từ độ lượng và tình thương bao la để ân cần mời gọi tất
cả những kẻ bất hạnh, những người đau khổ, những nạn nhân bi thảm của các chế
độ độc tài, những kẻ khao khát quyền sống và quyền Tự Do trên gần 200 quốc gia
trên thế giới đến với mảnh đất của Tự Do, Bình Đẳng, tình thương và Công Lý
cũng như là mảnh đất của cơ hội để được thăng tiến trên mọi lĩnh vực, cũng như
để được sống trong Thanh Bình An Lạc và Hạnh Phúc trên mảnh đất lý tưởng đó?
15. Quốc gia nào có 17 viện đại học danh tiếng nhất thế giới khi thế giới chỉ
có 20?
16. Quốc gia nào có đủ ý chí, thiện chí và tài năng cũng
như phương tiện để huấn luyện và giáo dục cho 500 ngàn sinh viên các ngành hàng
năm tại khắp nơi trên thế giới gởi tới? 17. Quốc gia nào có những tổ ton giao
chức trợ giúp vĩ đại nhất thế giới đã bỏ ra mỗi năm 40 tỷ đô la để thi hành các
công tác bác ái đối với những người nghèo khó trên toàn thế giới? 18. Quốc gia
nào đã tin tưởng rằng quốc gia của họ là một quốc gia được đặt dưới sự cai quản
trực tiếp của ĐẤNG TẠO HÓA – ONE NATION UNDER GOD, và quốc gia ấy đã đặt đức
tin trọn vẹn vào bàn tay của THIÊN CHÚA – in GOD WE TRUST để xây dựng nên nền
văn minh Dân Chủ thoát thai từ Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước để giúp cho các
quốc gia trên toàn thế giới xây nên những quốc gia Tự Do Bình Đẳng, tình
thương, đạo đức và Công Lý để mọi người được sống Hạnh Phúc bên nhau? 19.Quốc
gia nào có niềm tin tôn giáo mãnh liệt nhất và với đức tin tôn giáo ấy quốc gia
này trở thành một quốc gia lý tưởng nhất và là quốc gia duy nhất trong toàn bộ
lịch sử của văn minh nhân loại? 20. Quốc gia nào đã có đủ ý chí, thiện chí, đạo
đức và Công Lý để cứu vãn Trung Hoa lục địa thoát khỏi nanh vuốt hãi hùng của
chín đế quốc thực dân của cả Đông lẫn Tây xâu xé họ vào năm 1921? 21. Câu hỏi
sau chót là quốc gia nào mà cả gia đình con người có thể tin cậy như tin vào ánh sáng
dẫn đường trên đồi cao và là nguồn hy vọng cho tất cả mọi chủng tộc, mọi
màu da, mọi quốc gia trên mảnh đất này để cùng nhau tiến vào thế kỷ XXI để cùng
nhau xây dựng và phát triển quốc gia ổn định, phú cường và cùng nhau xây dựng
một nền Hòa Bình, Công Chính cho NGÔI LÀNG TOÀN CẦU. Tuy nhiên, nơi đây và bây
giờ, thế giới mà tất cả chúng ta đang sống, đang còn có quá nhiều sự hiểu lầm
ngộ nhận giữa Hoa Kỳ và các quốc gia tại Á Châu và tại Trung Đông, giữa tôn
giáo này với tôn giáo khác. Thế giới mà chúng ta đang sống còn quá nhiều xung
đột và hận thù và hiểm họa chiến tranh nguyên tử.
Vì thế, thế giới này phải tìm kiếm cho được một ánh sáng
dẫn đường và tìm kiếm một hy vọng … Nhưng quốc gia nào… quốc gia nào mà cả gia
đình nhân loại có thể tin cậy được???
Cuối cùng chỉ còn những câu hỏi đang cần có những câu trả
lời dành cho tất cả mọi người trên mặt đất này.
Hawaii 10.2012
Nguyễn Anh Tuấn
www.vietnamvanhien.net
Comments
Post a Comment