Vụ Hồ Hữu Hoà trong Giáo Hội Công giáo Việt Nam
Vụ
Hồ Hữu Hoà
trong Giáo Hội Công giáo Việt Nam
Nguyễn Chính Kết
Vào trang Facebook của anh Hai Lê (https://www.facebook.com/profile.php?id=100010082284940),
tôi đã đọc status có đường link sau đây:
Đọc xong, tôi nghĩ: mình là Kitô hữu, mặc nhiên có
chức năng và trách nhiệm ngôn sứ từ khi được rửa tội, nên tôi cảm thấy bổn phận
phải lên tiếng về vụ HỒ HỮU HOÀ này, nhất là khi các dư luận viên của cộng sản
luôn luôn tìm cách bênh vực cho chức linh mục của HỒ HỮU HOÀ để hướng dẫn dư
luận và suy nghĩ của Giáo Hội cũng như của mọi người theo hướng công nhận ông
ta chính thức là linh mục. Trách nhiệm ngôn sứ đòi buộc tôi phải làm sáng tỏ sự
kiện này.
Thiết nghĩ, chúng ta cần phân biệt 2 lãnh vực:
● Trước mặt Giáo Hội, như một số linh mục đã chính
thức lên tiếng xác định, thì HỒ HỮU HOÀ đã trở thành linh mục thật sự trước mặt
Giáo Hội, vì đã chính thức được một giám mục của Giáo Hội Công giáo phong chức
linh mục theo đúng giáo luật, chỉ có điều là không hợp lệ thôi.
● Nhưng trước mặt Thiên Chúa, liệu Ngài có coi HỖ HỮU
HOÀ chính là linh mục của Ngài, do chính Ngài chọn hay không. Nói chung, bất kỳ
một linh mục nào được thụ phong cũng đều tự hào rằng mình được chính Thiên Chúa
chọn, không phải chỉ chọn vào một thời điểm nào đó mới đây, mà đã được chọn từ
đời đời.
Vấn đề đặt ra ở đây, đó là: có phải tất cả những ai
được Giáo Hội phong chức linh mục một cách phù hợp với giáo luật, thì đều thật
sự là linh mục trước mặt Thiên Chúa hay không. Tôi không giỏi về Giáo luật của
Giáo Hội, nên không dám trả lời thay Giáo Hội. Tôi chỉ dám trả lời theo lương
tri và sự suy nghĩ theo lương tri mà Thiên Chúa ban cho tôi thôi.
Trước hết, tôi có thể xác định với sự dè dặt là trước
mặt Giáo Hội, thì HỒ HỮU HOÀ đã trở thành linh mục thật sự. Nhưng trước mặt
Thiên Chúa, thì theo lương tri mà Thiên Chúa ban cho tôi, và dựa theo «cảm thức
chung» (common sense) của mọi người, tôi có thể xác định rằng HỒ HỮU HOÀ không
thật sự là người được Thiên Chúa chọn để phục vụ Ngài và Giáo Hội của Ngài, mà vì có rất nhiều điều khuất tất nên rất có thể là được một thế lực nào đó chọn để làm một «linh mục công giáo» hầu phục vụ cho thế lực đã chọn ông. Sự khuất
tất quá rõ ràng, sự phi lý và nhanh chóng phi thường trong việc được thụ phong
khiến cho điều này (tức được chọn bởi một thế lực bất chính) trở nên đáng tin
hơn.
Giáo Hội có thể chọn lầm, có thể phong chức lầm
người, điều này quá dễ hiểu và chắc chắn đã xảy ra không chỉ một lần. Người
được Giáo Hội phong chức lầm nhưng việc phong chức hoàn toàn phù hợp với Giáo
luật, thì đương nhiên Giáo Hội vẫn coi người ấy đã thật sự là linh mục. Đây chính
là khuynh hướng vị luật. Chắc chắn trong lịch sử Giáo Hội đã có những sự lầm
lẫn như thế, nhất là khi Giáo Hội, là Israel mới, tương tự như Israel cũ, đã có
những lúc không trung thành với Thiên Chúa, hoặc đã bị những thế lực trần tục
lũng đoạn, như trường hợp Giáo Hội Việt Nam hiện nay đang bị lũng đoạn bởi chế
độ độc tài Cộng sản. Điều này thì ai cũng biết: Đối với việc phong chức linh
mục hay giám mục, Giáo Hội chỉ lên danh sách những người mình chọn, nhưng quyết
định ai được Giáo Hội phong chức hay bị loại ra, là do nhà cầm quyền CSVN quyết
định.
Giáo Hội có thể chọn lầm, có thể phong chức lầm,
nhưng chắc chắn 100% Thiên Chúa không thể lầm. Mà một người có thật sự là linh
mục của Chúa hay không, tuỳ thuộc vào việc Chúa có chọn và nhìn nhận hay không.
Dù một người được Giáo Hội công nhận là linh mục hay giám mục vì đã thành công
trong việc lường gạt hay qua mặt Giáo Hội, thì người ấy chẳng thể là linh mục
hay giám mục trước mặt Thiên Chúa được. Lương tri hay cảm thức chung của mọi
người đều có thể nhận ra điều ấy.
Thật vậy, giả như một đảng viên cộng sản, vốn là
người vô thần, chẳng tin gì vào Thiên Chúa, được đảng cài cắm vào trong Giáo
Hội để có thể lặn sâu leo cao trong Giáo Hội. Khi Giáo Hội phong chức linh mục
hay giám mục cho người ấy, chắc chắn người ấy chẳng coi chức linh mục hay giám
mục là gì, mà chỉ thuần tuý coi đó là một chức danh tương tự như một chức danh
trần tục trong xã hội. Một người như thế, trong khi từ thâm tâm, hắn không coi mình là
một linh mục, mà chỉ coi mình là một đảng viên cộng sản trong vai trò giả linh
mục, thế mà các Kitô hữu, chỉ vì khuynh hướng vị luật của Giáo Hội, mà phải coi
hắn là một linh mục thật sự của Giáo Hội, và phải kính trọng hắn như người của
Thiên Chúa, chỉ vì hắn đã được phong chức linh mục đúng theo luật Giáo Hội quy
định, thì phải chăng có gì không ổn, không hợp lý trong Giáo luật của Giáo Hội.
Tôi thường suy nghĩ theo lương tri tự nhiên mà Thiên
Chúa ban cho, trong trường hợp này, tôi nhận thấy Giáo luật của Giáo Hội cũng
như mọi luật lệ khác của xã hội trần tục đều có những kẽ hở. Mà trường hợp của
Hồ Hữu Hoà hiện nay cho thấy một kẽ hở khá lớn trong Giáo luật về việc thành sự
hay không trong việc phong các chức thánh của Giáo Hội. Kẽ hở đó lại trở nên
lớn hơn rất nhiều trong những môi trường Giáo Hội bị những chế độ độc tài gian
trá lũng đoạn.
Luật quy định việc thành sự hay không trong việc
phong các chức thánh đều do Giáo Hội thành lập, nên những gì Giáo Hội lập nên
thì Giáo Hội cũng có quyền huỷ bỏ hoặc thay đổi. Tôi nghĩ đây là lãnh vực
mà Giáo Hội cần xét lại, đừng để giáo dân trong Giáo Hội cứ phải coi những «linh mục giả trước mặt Chúa» là «linh mục thật trong Giáo Hội» để rồi
phải kính trọng một cách phi lý, phải xưng tội hay tham dự những thánh lễ do
những «giả linh mục» này cử hành.
Có lẽ cũng nên bàn thêm về khuynh hướng vị luật. Đây là
một khuynh hướng tâm lý hiện diện trong mọi tổ chức có luật lệ, trong các tôn
giáo, trong các tu viện thuộc mọi tôn giáo, và trong cơ chế của mọi quốc gia
trên thế giới. Khuynh hướng vị luật là thái độ coi luật đã được ban hành là
phải được tuân hành trong mọi trường hợp, dường như không có luật trừ, bất chấp
việc tuân hành luật trong một số trường hợp trở nên phi lý, hay nghịch lại với
một luật cao hơn.
Trong Thánh Kinh Kitô giáo, Đức Giêsu một đằng rất
coi trọng việc tuân giữ lề luật, nhưng cũng tỏ ra rất khó chịu với khuynh hướng
vị luật của giới luật sĩ, kinh sư và Pharisêu thời ấy. Xin đan cử một trường
hợp điển hình trong số nhiều trường hợp khác:
Khi thấy một người mù cần được giúp đỡ, Đức Giêsu
động lòng thương và ra tay cứu giúp, bất chấp hôm đó là ngày sabát, là ngày mà
luật Môsê cấm ngặt không được làm việc. Như vậy, Ngài coi việc cứu người quan
trọng hơn việc giữ luật sabát, cho dù đây là luật buộc rất ngặt: người vi phạm
ở mức nghiêm trọng có thể bị tử hình (xem Xuất hành 31:14-15; 35:2). Thế mà
Ngài lại «hay chữa bệnh vào ngày sabát»
(Gioan 5:16). Còn người Pharisêu coi việc giữ luật sabát quan trọng hơn việc
cứu người, vì họ cho đây là luật buộc rất ngặt. Theo họ, thà để người khác tiếp
tục bị mù, bị thiệt hại, bị chết, còn hơn là vi phạm lề luật của Thiên Chúa.
Luật lệ chỉ là một phương tiện để giúp con người thực hiện một mục đích cao hơn, đó là thực hiện «lòng nhân ái, công lý và lòng thành thật» (Matthêu 23:23). Giữ luật nhiệm nhặt cách mấy mà không thực hiện được mục đích cao cả ấy thì việc giữ luật nhiệm nhặt ấy kể như không. Chính Đức Giêsu đã sẵn sàng lỗi luật ngày sabát khi mà việc giữ luật chi tiết này hóa ra lại vi phạm luật tối thượng là luật yêu thương (x. Matthêu 12:1-8; 9-14; Luca 13:10-17; 14:1-6; Gioan 5:1-18; 9:1-41).
Các
kinh sư Do Thái, những người Pharisêu, nổi tiếng về tinh thần vị luật, họ giữ
luật một cách rất nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giêsu chê trách rằng họ chẳng hề
tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giêsu đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái
rằng: «Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật cho
các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Gioan 7:19).
Stêphanô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném
đá chết: «Các ông là những người đã lãnh
nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Công vụ 7:53).
Những câu Kinh thánh sau đây cho thấy tính vị luật
một cách mù quáng, đi ngược lại cốt tuỷ của lề luật, tức tinh thần phải có khi
tuân giữ luật một cách hình thức, là điều Kinh thánh không ủng hộ: «Người ta được nên công chính vì tin, chứ
không phải vì làm những gì Luật dạy» (Rôma 3:28 ), nghĩa là điều cốt yếu để
nên công chính nằm ở trong tâm con người chứ không phải chỉ ở việc giữ luật bề
ngoài; «Trước nhan Chúa, không người phàm
nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy» (Rôma 3:20 ).
Để kết luận, theo thiển ý của tôi, chúng ta không nên
có tinh thần vị luật, chỉ căn cứ vào Giáo luật để kết luận như «đinh đóng cột» rằng HỒ HỮU HOÀ là một linh
mục thật sự của Thiên Chúa như bao linh mục khác. Đồng thời cũng nên sửa đổi
giáo luật để tránh có những kẽ hở quá lớn khiến những thế lực thù nghịch với
Giáo Hội có thể lợi dụng để cài cắm vào hàng ngũ Giáo Hội người của họ để phá
hoại Giáo Hội, để những Kitô hữu khác không phải tôn trọng những «linh mục giả» như là người thật sự của
Thiên Chúa.
Nguyễn Chính Kết
Comments
Post a Comment