Quan điểm về vấn đề Hội nhập Văn hóa
Quan điểm về vấn đề
Hội nhập Văn hóa
Ngày nay, mỗi dân tộc phải tự diễn tả
sứ điệp Kitô giáo
theo cung cách văn hóa của mình
Hiện nay chúng ta đang ở một thời điểm khác với các thừa sai
ngày xưa.
- Một mặt, các dân tộc bị trị thời thực
dân ngày xưa vùng dậy và tự giải phóng, ý thức dân tộc và tự trị rất mạnh. Vì
thế, họ không dễ dàng chấp nhận những hình thức nô lệ hay áp đặt như trước,
trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Trong thần học, người
ta không còn dễ dàng chấp nhận hiểu hay diễn tả sứ điệp Chúa Kitô theo thần học
truyền thống vốn được xây dựng trên nền tảng văn hóa Tây Phương. Họ đòi hỏi
phải có một nền thần học thích hợp để suy tư và diễn tả sứ điệp Kitô giáo theo
cung cách văn hóa của dân tộc họ.
- Mặt khác, triết học kinh viện cùng với
triết học Tây Phương xưa không còn phù hợp với con người thời đại, thêm vào đó,
triết học Đông Phương càng ngày càng được hiểu biết và đánh giá cao hơn.
Vì thế, chúng ta cần phải suy tư, tìm
cách diễn tả đức tin hay sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của dân tộc
chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải yêu mến nền văn hóa của mình đồng thời học
hỏi về văn hóa ấy, biết được những nét đặc biệt của nền văn hóa mình, để diễn
tả đức tin cho phù hợp.
a) Phải yêu mến nền văn hóa của mình
Văn hóa của một dân tộc là tinh hoa của
dân tộc ấy, kết tinh từ điều kiện sống, phong cách sống, triết lý sống, nếp suy
nghĩ, sự khôn ngoan... của dân tộc ấy. Dân tộc nào cũng đều tự hào về nền văn
hóa của mình, và có tự hào như vậy dân tộc ấy mới tiến bộ, mới dám ngẩng mặt
lên giữa các dân tộc khác. Chẳng hạn người Việt
Trong việc phúc âm hóa, để hội nhập văn
hóa một cách dễ dàng và tốt đẹp, chúng ta cần phải yêu mến dân tộc mình, đồng
bào mình, đồng thời yêu cả nền văn hóa của mình nữa. Có yêu nền văn hóa của
mình, có tự hào về nó, ta mới có hứng khởi và cảm thấy dễ dàng tìm những lối
diễn tả phù hợp với nền văn hóa ấy. Không yêu mến nền văn hóa của mình, hay có
mặc cảm tự ty về nền văn hóa ấy, ta sẽ cảm thấy ngượng ngập, e dè khi phải diễn
tả theo cung cách của nền văn hóa ấy. Có yêu mến nền văn hóa của mình, ta mới
có nhiều động lực để tìm hiểu, đào sâu và biết rõ nền văn hóa ấy.
b)
Cần nắm vững triết lý Đông Phương
Nếu người Tây Phương đã dùng triết học
Tây Phương để diễn tả sứ điệp Kitô giáo, thì theo tinh thần hội nhập văn hóa,
người Đông Phương cũng cần phải dùng triết học Đông Phương để diễn tả sứ điệp
ấy. Trước đây, để học thần học truyền thống, các chủng sinh hay tu sĩ phải học
hai ba năm triết Tây thì mới có thể có dụng cụ để đi vào nền thần học truyền
thống. Ngày nay, muốn suy tư, khai triển, diễn tả đức tin của mình trong truyền
thống văn hóa dân tộc, chúng ta cũng cần phải nắm vững những gì liên quan đến văn
hóa Á Đông, chẳng hạn triết Đông, vũ trụ quan, nhân sinh quan và nhận thức luận
của Á Đông, cần phải thấm nhuần triết Đông, thì dần dần chúng ta mới có thể có
những cách diễn tả đức tin phù hợp với phong cách của dân tộc được.
Ngày xưa, triết học Tây Phương được hệ
thống hóa, được đào sâu và phát triển qua bao thế hệ cũng vì nó được hữu dụng
trong Kitô giáo, được dùng làm dụng cụ để diễn tả đứùc tin. Cũng vậy, nếu chúng
ta quyết tâm dùng triết lý Đông Phương để diễn tả đức tin, thì dần dần triết lý
ấy cũng sẽ được xây đắp, hệ thống hóa để trở thành một dụng cụ tốt cho đức tin
Kitô giáo. Và đó là một cơ hội rất tốt để chúng ta phúc âm hóa triết lý Đông Phương,
và qua đó phúc âm hóa nền văn hóa Đông Phương
c)
Khả năng của Triết Đông
Triết lý Đông Phương chắc chắn chẳng kém
cạnh gì triết lý Tây Phương nếu không muốn nói nó có nhiều khả năng hơn. Ngày
nay, người Âu Châu càng ngày càng khám phá ra giá trị thâm thúy của triết Đông,
của Kinh Dịch, và càng có nhiều triết gia tìm học. Kinh Dịch là một triết lý
sống của nhiều dân tộc ở Á châu. Có lẽ trên thế giới này không có một thứ triết
lý nào ảnh hưởng vừa sâu vừa rộng trong sinh hoạt của dân chúng như Kinh Dịch.
Thật vậy, tại châu Á từ xưa tới nay, mọi lãnh vực của đời sống đều áp dụng ít
nhiều triết lý Kinh Dịch? Các loại khoa học (Đạo học, binh pháp, y học, bốc
phệ, địa lý, thiên văn...), nghệ thuật (cầm, kỳ, thi, họa, vũ, nhạc...), cho
tới việc ăn uống, giữ gìn sức khỏe... đều chịu ảnh hưởng của triết lý Kinh
Dịch. Triết lý ấy là một triết lý động.
d)
Triết Đông là một triết lý động
Chính Công Đồng Vatican II cũng chủ trương: «Từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ, nhân loại đã bước sang một quan niệm động và tiến hóa hơn» (1*).
(*1) Công Đồng Vatican II, Gaudium et Spes, 5§3.
Quan niệm của triết lý Hy Lạp Tây
Phương là một quan niệm tĩnh, còn quan niệm của triết lý Đông Phương là một
quan niệm động. Nhiều triết gia Tây Phương hiện đại, nhiều nhà thần học Kitô
giáo Tây Phương đã đả kích triết lý Hy Lạp mà Tây Phương đã dùng làm nền tảng
cho tòa nhà triết học và thần học của mình. Chẳng hạn nhà thần học Charles
Duquoc, trong cuốn L’homme Jésus, Christologie I, essai dogmatique có
viết: «... các giáo phụ, vì thừa hưởng nền văn hóa triết học của thời đại
bấy giờ... đã sử dụng một dụng cụ mà ngày nay đã trở thành vô giá trị» (2*).
(*2) Bản dịch «Giêsu, Người Nazarét», dịch giả vô danh, cuốn II, trang 290, đoạn 2.
e)
Triết Đông phù hợp với các tôn giáo Đông Phương
Nếu phải dùng triết lý để suy tư về Thiên Chúa, để khai triển những mặc khải của Thiên Chúa, thì chắc chắn giữa hai nền triết lý Đông và Tây, triết lý của Đông Phương phù hợp với công việc ấy hơn triết lý Tây Phương. Theo linh mục Aloysius Pieris (3*) - một thần học gia Á châu thuộc Dòng Tên - thì triết lý Tây Phương phát xuất từ triết lý Hy Lạp, vốn được dùng làm dụng cụ để khai triển tôn giáo của người Hy Lạp (thờ thần Zeus), là tôn giáo mà cha xếp vào loại tôn giáo vũ trụ (cosmic) (4*).
(*3) Xem trong Aloysius Pieris, The Theology of Liberation in Asia, bản dịch của Trần Duy Nhiên, Thần học Giải phóng Á Châu, Tủ Sách Đại Kết, UBĐKCG, TP. Hồ Chí Minh 1988.
(*4) Các tôn giáo vũ trụ (cosmic religions): là những tôn giáo thần thánh hóa những sức mạnh của vũ trụ, như các hiện tượng thiên nhiên. Thứ tôn giáo này thấp kém hơn các tôn giáo siêu vũ trụ (metacosmic religions), loại tôn giáo sau có khả năng giải quyết những khát vọng sâu xa siêu không gian, siêu thời gian của con người, như Kitô giáo, Phật giáo, Lão giáo…
Trước Kitô giáo, ở Tây Phương
không có một tôn giáo nào thuộc tầm cỡ siêu vũ trụ cả, nên không có một triết
lý nào phù hợp với một tôn giáo thuộc tầm cỡ siêu vũ trụ (metacosmic)
như Kitô giáo cả. Vì thế, để hội nhập văn hóa, các giáo phụ Latinh và Hy Lạp đã
«rửa tội» và tinh luyện triết lý này để trở thành một công cụ khai triển
Kitô giáo, vì không có một thứ triết lý nào khác tốt hơn. Còn triết lý Đông Phương,
vốn là những công cụ của các tôn giáo siêu vũ trụ tại châu Á như Lão giáo, Phật
giáo... nên dẫu sao nó vẫn có nhiều khả năng và phù hợp hơn với loại tôn giáo
cao cấp này.
Nguyễn
Chính Kết
(Trích trong «Thích ứng và Hội nhập Văn hóa
trong Truyền giáo» của Nguyễn Chính Kết)
Comments
Post a Comment