09 Chương chín ‒ Tái sinh trong tự do


Chương chín
Tái sinh trong tự do

Chắc hẳn Đức Giêsu không đến trần gian chỉ để làm một người dễ mến, để tiếp đón, chữa bệnh và an ủi dân chúng. Nhưng ngài đến với một mục đích: đó là mang lại một sứ điệp và để cứu chuộc nhân loại bằng những đau khổ và cái chết của mình.
Việc làm đầu tiên của ngài là công bố sứ mệnh của mình như người ta thường làm ngày nay. Tuyên ngôn sứ mệnh đó rút từ sách Isaia: «Thần Linh của Thiên Chúa ngự xuống trên tôi, vì ngài tấn phong tôi để tôi đem tin mừng cho người nghèo khổ. Ngài sai tôi đến để công bố tự do cho người bị tù đày, để cho người mù được sáng mắt, để giải phóng người bị áp bức và công bố năm thánh của Thiên Chúa» (Lc 4: 16-19)
Đức Giêsu đến để cải huấn con cái của Cha ngài, để đem tin mừng cho họ, để nói cho họ biết Thiên Chúa rất yêu quí họ và họ được tự do. Tự do là yếu tố chính của tin vui của ngài. Hiểu như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu được đời sống của Đức Giêsu và biết ngài mong muốn gì nơi chúng ta, đó là ngài muốn chúng ta phải đón mừng tự do và sống tự do như ngài ban cho.
Tự do Đức Giêsu ban là gì? Phải hiểu nó trong hoàn cảnh ngài sống. Dân Do thái đã được giải phóng trong nhiều thế kỷ trước, không những họ được giải phóng khỏi nước Ai cập, nhưng cũng được giải phóng khỏi những mê tín dị đoan. Điều kỳ lạ là họ đã mất tự do do chính tay những người lãnh đạo tôn giáo của họ. Đời sống của họ bị bóp nghẹt và họ không còn được tự do tiếp xúc với Thiên Chúa. Những người lãnh đạo tôn giáo đã làm cho dân chúng sợ hãi Thiên Chúa. Họ dùng Thiên Chúa làm khí cụ để trừng phạt đối với những ai bất tuân lệnh của họ và kềm hãm họ bởi không biết bao luật lệ. Dân chúng không còn được tự do nữa. Khi Isaia và Đức Giêsu nói về tự do, không phải các ngài muốn nói đến tự do vật chất, nhưng là tự do tinh thần, tự do hưởng thụ đời sống với bao thụ tạo khác của Thiên Chúa, tự do làm con cái Thiên Chúa và tiếp xúc với ngài như là Cha mà không bị ai cản trở, cũng giống như mọi đứa con được tự do tiếp xúc với cha mẹ mình vậy. Hiểu như vậy thì ý niệm tự do của Đức Giêsu mới có ý nghĩa.
Ngài «đến để giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng của lề luật mà không một ai gánh nổi», thánh Phaolô nói thế.
Không phải Đức Giêsu nói rằng không cần có giáo quyền để hướng dẫn dân chúng, nhưng ngài rất đau lòng khi thấy các người lãnh đạo tôn giáo gây khó khăn cho đời sống của dân chúng, khi các vị can thiệp vào đời sống của họ với biết bao luật lệ. Người ta nghĩ rằng các người lãnh đạo tôn giáo ngày nay cũng phải ý thức cái tinh thần quá câu nệ luật pháp này, bởi vì Đức Giêsu đã xem đó là một vấn đề trọng yếu.
Tuy nhiên tôi có một kinh nghiệm đau đớn khi thấy trường hợp một phụ nữ không rước Mình Thánh được vì chị dị ứng với rượu và bột mì. Khi thấy nhiều người cũng mang bịnh dị ứng, chị bèn xin linh mục dùng bột khác và rượu nho không có cồn để dâng Thánh Lễ. Một nhóm linh mục và luật gia viết thư thỉnh ý Toà thánh Roma. Luật không cho phép. Đó là câu trả lời từ Roma. Do đó chị ta không rước được Mình Thánh, trong khi Đức Giêsu lại bảo nếu chúng ta không rước ngài thì không có sự sống. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng được chị phải đau khổ như thế nào vì chẳng bao giờ được rước Mình Thánh. Đức Giêsu nghĩ thế nào trong trường hợp này? «Lề luật được đặt ra cho con người chứ không phải con người cho lề luật». Lề luật phải nhượng bộ trước nhu cầu của con người. Thánh Lễ là lề luật của Thiên Chúa, còn các vật liệu để dâng lễ chỉ là lề luật của Giáo hội. Lề luật của Thiên Chúa phải được ưu tiên, bằng không chúng ta sẽ vô hiệu hóa lề luật của Thiên Chúa mà chỉ giữ truyền thống của loài người.
Tự do tinh thần rất cần thiết để đời sống thiêng liêng phát triển và lớn mạnh. Còn tinh thần lề luật thì làm cản trở Thiên Chúa hoạt động nơi chúng ta. Thiên Chúa phải được tự do để hướng dẫn chúng ta theo đường lối ngài chọn. Nếu Thánh Linh Thiên Chúa soi sáng và hướng dẫn, chúng ta phải được tự do đáp lại. Tuy nhiên cha mẹ và thày giáo lý thường làm cản trở con cái, bảo chúng cái gì được làm và cái gì không được làm, thay vì giúp chúng nhận thức điều Thiên Chúa muốn nói với chúng và ngài muốn dẫn đưa chúng đi về đâu…
Xung đột giữa tự do tinh thần và giáo quyền xảy ra từ lâu trước khi Đức Giêsu đến. Vấn đề mà các ngôn sứ gặp phải là ai có quyền dạy dỗ dân chúng. Thiên Chúa ủy nhiệm cho các linh mục thượng phẩm và kinh sư quyền giáo huấn trong Dothái giáo. Những quyết định của họ trở thành lề luật và ai lỗi phạm sẽ bị trừng phạt. Tuy nhiên khi giáo quyền không thi hành phận sự của mình, thỉnh thoảng Thiên Chúa cũng gọi các ngôn sứ và sai các ông đi dạy dỗ dân chúng. Thường thường các ông được lệnh giáo huấn dân chúng nơi Đền Thờ. Điều này làm cho giáo quyền phát điên lên. «Chúng tôi là thày của Israel. Thiên Chúa đã bổ nhiệm chúng tôi. Các người không là gì cả. Sao lại dám dạy dỗ dân chúng?» Đó là vấn đề! Các giáo sĩ bị chạm vì có người dám làm công việc mà Thiên Chúa ủy nhiệm cho các ông. «Nhưng Thiên Chúa bảo tôi mang sứ điệp đến». Nhưng câu trả lời này cũng không lay chuyển được các ông. Các ông vẫn bắt giam, hành hạ các ngôn sứ và giết hầu hết các ngôn sứ. Ngôn sứ Zakaria bị giết ngay bên cạnh bàn thờ. Đức Giêsu tố cáo các kinh sư và những người Pharisêu vì tay họ đẫm máu các ngôn sứ, bởi vì họ có cùng một tâm trạng và hành sự như cha ông của họ đã làm đối với các ngôn sứ trong dĩ vãng.
Theo lý thuyết thì không bao giờ nên có xung đột giữa tự do tinh thần và quyền bính của Giáo hội bởi vì Thiên Chúa là chúa của cả hai. Cả hai phải hợp tác tốt đẹp để Chúa Thánh Linh có thể thực hiện những gì ngài muốn trong Giáo hội và trong mỗi Kitô hữu, cũng như trong mỗi cá nhân dẫu họ có nhận biết Giêsu hay không.
Khi đến một thời điểm mà chúng ta sẵn sàng hướng đời sống về Thiên Chúa, thì ngài sẽ hoạt động bên cạnh chúng ta, chia xẻ nhận thức của ngài về chúng ta, cũng như giúp chúng ta hiểu biết cách sâu xa về ngài và những điều linh thiêng. Cuộc sống mới sẽ làm cho chúng ta phấn khởi. Với lòng đầy nhiệt huyết và quảng đại chúng ta sẽ hoạt động hăng say cho tha nhân, cho những phần tử trong gia đình, mà cách đó không lâu chúng ta không bao giờ nghĩ đến.
Cuối cùng chúng ta tự bảo, «Có lẽ tôi có thể giúp cho xứ đạo.» Sau đó tôi đến gặp vị chủ chăn, «Thưa cha, tôi rất hăng say muốn làm gì giúp cho xứ đạo. Cha có gì để làm không?»
Câu trả lời thường như thế này, «Xứ đạo có mọi thứ cho giáo dân. Tôi thấy không cần gì nữa. Cám ơn. Nếu cần, tôi sẽ liên lạc với bạn». Có khi câu trả lời sẽ cộc lốc hơn. Những câu trả lời như thế làm choáng váng nhiều người muốn hợp tác với cộng đồng. Có thể vì chúng ta thường xem cộng đồng chỉ là xứ đạo mà không nghĩ rằng cộng đồng là nơi chúng ta sinh sống, làm việc và giải trí. Vì nhu cầu trong xã hội luôn luôn thay đổi, nên Thiên Chúa ban tài năng cho con người không phải chỉ để phục vụ xứ đạo là một đơn vị hạn hẹp. Thánh Linh Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong địa danh xứ đạo, nhưng có tầm mức quảng đại và sâu xa hơn. Khi gọi ai, ngài gọi họ để phục vụ cộng đồng. Vì thế những người lãnh đạo trong giáo xứ luôn luôn có thể tìm ra nhu cầu cần đến khả năng của họ, nếu các vị mở rộng nhãn giới mà nhìn xem cộng đồng một cách quảng đại hơn. Làm thế đó, chúng ta sẽ luôn luôn có thể tìm ra việc hợp với khả năng của mọi người. Rất tiếc rằng các chủng viện không đào tạo các giáo sĩ tương lai với cái nhìn quảng đại hơn.
Chúng ta được dạy rằng mình là thành phần của thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, mỗi người được gọi đóng góp một cái gì đặc biệt cho cộng đồng, được gọi chia xẻ khả năng của mình với những thành phần khác. Nếu đúng thế thì cộng đồng cần khả năng của mỗi người. Nhưng mỗi người trong chúng ta cũng được tự do hoạt động theo Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Tuy nhiên thường thì tinh thần này bị tắc nghẽn khi người ta được bảo là không cần đến họ. Đây là một trong những điều bất mãn trầm trọng trong các xứ đạo làm cho nhiều người bỏ đi. Họ biết họ có khả năng đóng góp và rất mong muốn đóng góp nhưng bị từ chối, có khi còn bị xem là quấy rầy. Tại sao phải ngồi lại trong khi có nơi khác cần đến khả năng của bạn.
Thánh nữ Bênađét Soubirous có được một vị chủ chăn rất khôn ngoan và can đảm để tìm xem Thiên Chúa muốn dùng chị làm gì. Khi biết chắc đức Maria hoạt động nơi chị, ông đã sẵn sàng bênh vực chị dẫu phải thiệt thòi cho ông. Ngược lại, giám mục của chị Gioan thành Arc vì lý do chính trị mà không tìm hiểu chị và còn đồng ý thiêu sống chị vì bảo chị là một phù thuỷ. Sau đó ông biết mình đã nhầm lẫn lớn và chị chính là một khí cụ Thiên Chúa dùng. Ông hối hận mà phong thánh cho chị và xây một nhà thờ lớn để kính nhớ chị.
Để tiếp tục thi hành sứ mệnh của mình, Đức Giêsu đi từ nơi này qua nơi nọ hoàn thành những gì ngài được sai đến để làm như lời ngài nói ở Nadarét, đó là giải phóng con người khỏi quyền lực Satan và gông cùm của các kinh sư và nhóm người Pharisêu. Ngài giải tỏa tâm trí con người để họ lắng nghe Chúa Thánh Linh mà không còn sợ hãi Thiên Chúa và hình phạt nếu không tuân giữ lề luật của đạo. Tâm hồn con người không thể lắng nghe Chúa Thánh Linh nếu từ bé đã bị dọa chỉ phải nghe các giáo sĩ mà thôi. Lớn mạnh trong Chúa Thánh Linh có nghĩa là luôn luôn tìm hiểu Thiên Chúa và cách thức ngài hoạt động trong đời sống chúng ta và trong thế giới. Những người chính thống vì quá cứng nhắc nên khó mà hiểu biết Thiên Chúa và sứ điệp của Đức Giêsu, bởi vì họ câu nệ từng dòng chữ mà không dám thay đổi. Chính
Chúa Thánh Linh ban sự sống và ý nghĩa cho những dòng chữ viết xuống (Sách Thánh). Chính Chúa Thánh Linh mới soi sáng cho chúng ta hiểu ý nghĩa Kinh Thánh cách rõ ràng và sâu xa hơn.
Khi người ta bị ngạt thở vì sợ hãi thì không thể nghe được lời của Chúa Thánh Linh. Chúng ta sợ hãi lời của ngài mà không muốn lắng nghe. Chúng ta không bao giờ nghĩ rằng những gì đã được giáo huấn có thể giúp chúng ta học hỏi thêm. Chính đấy cũng là nỗi sợ hãi của các ngôn sứ khi Thiên Chúa kêu gọi các ông. Các ông sợ hãi không dám đáp lại ngài, bởi vì nó mới lạ quá, kinh hãi quá, khác với những gì các ông đã được đào tạo.
Đức Giêsu đi từ làng mạc này qua làng mạc khác, giải phóng dân chúng khỏi những bệnh tật thể xác và tâm thần, khỏi gông cùm của tội lỗi và quyền lực của ma quỉ và khỏi u tối của tâm hồn. Đức Giêsu thật sự thi hành sứ mệnh của mình như lời ngài tuyên bố, đó là sứ mệnh giải phóng con người, đó là tuyên tố năm hồng ân của Thiên Chúa, năm thánh, không phải một năm với 365 ngày, nhưng là thời gian ngắn ngủi mà Đức Giêsu sống với con người và ban phúc cho đời sống của họ, vì ngài sống giữa họ và yêu thương họ. 

______________________



Comments

Popular posts from this blog

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Hãy cải thiện Giáo Hội từ gốc chứ đừng từ ngọn

Về phản ứng của Ban Biên Tập Công giáo Việt Nam