07 Chương 7 - «Vương quốc» và Tiền bạc
Chương 7
«Vương quốc» và Tiền bạc
Tìm kiếm tiền
bạc là đối nghịch với tìm kiếm «vương
quốc» của Thiên Chúa. Mammon và Thiên Chúa là hai chủ nhân. Nếu yêu mến và
phụng sự chủ này, thì nhất định phải bỏ chủ kia (Mt 6:24; Mc 4:19), không thể
nào thoả hiệp được.
Trong các
sách Phúc âm Đức Giêsu tuyên bố rất gay gắt về tiền bạc và tài sản, nhưng đa số
các người Kitô lại hiểu nhẹ đi. Những lời tuyên bố của ngài về «vương quốc» của Thiên Chúa thật đáng
kinh ngạc, không phải vì nó sắp được thành lập, nhưng «vương quốc» đó là triều đại của người nghèo. Người giàu có thì
không có chân trong đó, bao lâu họ còn giàu sang (Lc 6:20-26). Người giàu không
thể nào gia nhập «vương quốc», cũng
như con lạc đà không thể nào chui qua lổ kim (Mc 10:25). Mátcô nói rằng chính
các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải sửng sốt về lời tuyên bố đó (Mc 10:24, 26).
«Vương quốc» đó như thế nào?
«Họ bàn tán với nhau: Như thế thì ai sẽ được
cứu rỗi. Đức Giêsu chằm chằm nhìn họ, ngài nói: Đối với loài người thì không
được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được». (Mc 10:26-27)
Nói cách
khác, phải là một phép lạ thì người giàu mới vào được «vương quốc» của Thiên Chúa, vì không phải đưa họ vào với của cải
của họ, nhưng họ phải bỏ của cải để vào «vương
quốc» của người nghèo. Đó là điều người thanh niên giàu có được dạy phải
làm (Mc 19:17-22). Nhưng vì anh ta không tin ở «vương quốc» của Thiên Chúa mà lại quá tin tưởng ở của cải của anh,
nên phép lạ đã không xảy ra. Quyền năng của Thiên Chúa không đủ sức hoạt động
nơi anh để làm một việc không thể làm được.
«Vương quốc» của Thiên Chúa không có chỗ
cho người giàu. Ở đó không có phần thưởng và phần an ủi cho họ (Lc 4:24-26).
Trong dụ ngôn người giàu và người nghèo Lagiarô không nói lý do tại sao người
giàu bị truất đi mọi phần thưởng ngoài việc ông ta giàu và không chia xẻ với
người ăn mày (Lc 16:19-31). Đó cũng là điều người giàu muốn cảnh cáo anh em của
ông. Nhưng ai sẽ tin ông?
Như vậy nếu
muốn để tâm vào việc tìm kiếm «vương quốc»
của Thiên Chúa và tiếp thu các giá trị của nó thì phải bán hết mọi tài sản (Mt
6:19-21; Lc 12:33-34; 14:33). Đức Giêsu đòi hỏi những ai theo ngài phải từ bỏ
tất cả: nhà cửa, gia đình, đất đai, thuyền bè và chài lưới (Mc 1:18,20;
10:28-30; Lc 5:11). Ngài cảnh cáo họ phải ngồi xuống và tính toán phí tổn trước
(Lc 14:28-33).
Làm việc bố
thí thôi không đủ, nhưng Đức Giêsu còn đòi phải chia xẻ toàn diện mọi tài sản
vật chất. Ngài muốn giáo dục dân chúng thoát ly khỏi mọi lo âu về tiền bạc và
của cải. Họ không nên lo lắng phải có gì để ăn, có gì để mặc (Mt 6:25-33).
Ai đoạt lấy
áo choàng của anh, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho họ, và
ai cướp lấy gì cũng đừng đòi lại. Hãy cho vay mà đừng hòng được trả lại. (Lc
6:29-30, 35)
Khi ông đãi
tiệc, hãy mời người nghèo, người tàn tật, người què, người đui. Vì họ không có
gì để đáp lại, như thế mới thật là phúc cho ông. (Lc 14:13-14)
Nhưng thí dụ
đẹp đẽ nhất mà Đức Giêsu dùng để giáo huấn dân chúng chia xẻ những gì mình có
là thí dụ mấy ổ bánh và mấy con cá (Mc 6:35-44). Giáo hội sơ khởi và những
người viết Phúc âm giải thích biến cố này như là một phép lạ- nhưng không ai
nói rõ ràng rằng đó là một phép lạ. Thường thì một phép lạ làm cho thiên hạ
ngạc nhiên, kinh hãi hoặc lặng người đi. Nhưng những điều đó không thấy nói ở
đây mà chỉ nói rằng các môn đệ không hiểu được (Mc 6:52; 8:17-18,21). Biến cố
này mang một ý nghĩa sâu xa hơn: không phải đó là phép lạ bánh hoá ra nhiều mà
là thí dụ về việc chia xẻ.
Khi ấy Đức
Giêsu giảng dạy dân chúng trong một nơi hoang vắng và đến giờ nghỉ ngơi ăn
uống. Có người đem theo thức ăn, người thì không. Ngài và các môn đệ có năm ổ
bánh và hai con cá. Các môn đệ ngỏ ý phải bảo dân chúng đi mua thứ gì để ăn.
Nhưng Đức Giêsu bảo không, «Anh em hãy
cho họ ăn». Các môn đệ phản đối, nhưng Đức Giêsu bảo dân chúng ngồi thành
nhóm năm mươi người, rồi ngài lấy bánh và cá đưa cho các môn đệ bảo hãy «chia nhau ăn».
Hoặc là Đức
Giêsu bảo ai trong nhóm năm mươi người có mang theo thức ăn hãy chia cho những
người không có, hoặc là khi thấy Đức Giêsu và các môn đệ của ngài chia xẻ thức
ăn của mình thì dân chúng cũng mở bao thức ăn của mình mà chia cho nhau ăn.
Đó là «một phép la», vì đột nhiên nhiều người
không giữ bo bo thức ăn của mình nhưng bắt đầu chia cho nhau. Kết quả là có dư
thức ăn cho mọi người, vì còn lại đến mười hai bao. Khi người ta chia xẻ cho
nhau thì sẽ có nhiều hơn.
Cộng đồng
Kitô đầu tiên ở Giêrusalem cũng đã khám phá ra bí quyết này khi họ chia xẻ cho
nhau của cải của mình. Rất có thể Luca đã lý tưởng hoá cộng đồng này. Dẫu vậy
điều đó cũng là một bằng chứng hùng hồn rằng những người Kitô đầu tiên cũng đã
hiểu được ý muốn của Đức Giêsu.
«Các tín hữu để mọi sự làm của chung; họ bán
tài sản của cải và lấy tiền chia nhau tùy theo nhu cầu của mỗi người... họ chia
nhau thức ăn một cách vui vẻ và quảng đại» (CV 2:44-46). Đây không có nghĩa
là họ bán tất cả những gì họ có. Họ cũng phải giữ lại áo quần, giường chiếu,
nồi niêu, nhà cửa và đồ đạc trong nhà. Điểm được nêu lên là «không ai nói rằng những gì mình có là của
riêng, nhưng những gì họ có đều là của chung» (CV 4:32). Họ bán thứ gì ? «Ai
có đất đai hay nhà cửa thì bán đi mà dâng tiền cho các môn đệ để phân phát cho
những ai thiếu thốn» (CV 4:34-35).
Dĩ nhiên là
họ không bán nhà đang ở. Họ không sống chung dưới một mái nhà. Sách Công Vụ ghi
lại rằng «họ luân phiên tụ họp tại nhà
mỗi người» (CV 2:46). Nhà cửa họ bán đi phải là nhà cho thuê. Nói cách
khác, họ bán bất động sản, tài sản hay tiền đầu tư. Đó là những của cải, những
số thặng dư mà họ thực sự không cần đến.
Chúng ta cũng
đọc thấy một thí dụ tương tự trong phúc âm Luca. Khi Giakêu hoán cải, ông cho
đi một nửa tài sản của mình và hứa sẽ trả lại bốn lần những của cải ông đã gian
lận (Lc 19: 8).
Bán đi tài
sản của mình là thế đó: nghĩa là cho đi số thặng dư và xem không gì là của
riêng mình. Kết quả là «không ai phải
thiếu thốn» (4:34).
Đức Giêsu
không lý tưởng hoá sự nghèo khó. Trái lại, ngài chỉ quan tâm đến việc không ai
phải thiếu thốn. Vì vậy ngài chống đối thái độ làm sở hữu chủ và khuyến khích
dân chúng đừng lo lắng về của cải, nhưng hãy chia xẻ của cải cho nhau. Điều đó
chỉ có thể thực hiện trong một cộng đồng. Ngài hy vọng có được một vương quốc
hay một cộng đồng thế giới tổ chức khéo léo để không còn có người giàu kẻ
nghèo.
Lý do chính
yếu cũng vì do lòng từ bi đối với người nghèo và người bị đàn áp. Khi ngài bảo
chàng thanh niên giàu có bán đi tất cả của cải của anh, thì ngài không nhằm một
nguyên tắc luân lý nhiệm nhặt hay trừu tượng nào cả, nhưng là do lòng từ bi đối
với người nghèo. Cũng câu chuyện ấy trong Phúc âm của người Hêbru nói lên điểm
này rõ rệt hơn.
Phần đầu câu
chuyện thì chúng ta đã quen rồi, nhưng phần kế tiếp tác giả ghi chú thế này:
Nhưng người
giàu có gải đầu vì anh không hài lòng lắm. Nhưng Chúa nói với anh: «Làm sao anh có thể nói được anh đã tuân giữ
lề luật và sách các ngôn sứ ? Vì lề luật viết rằng: Ngươi phải yêu láng giềng
như chính mình, và này nhiều anh em của ngươi là con cái Abraham đang sống dơ
bẫn, chết đói, trong khi nhà cửa của anh thì có nhiều vật đẹp mà không cho họ
thứ gì cả».
Theo ý kiến
của học giả J. Jeremias thì câu nói này của Đức Giêsu cũng có tính cách lịch sử
như mọi câu nói khác trong bốn sách Phúc âm.
Như thế tổ chức
xã hội nào tạo nên đau khổ cho người nghèo trong khi người giàu lại có nhiều
hơn nhu cầu, thì đó là «vương quốc»
của Satan. Đức Giêsu lên án cái lối «đạo
đức» trọng tiền bạc và tôn thờ cả Thiên Chúa lẫn thần tiền bạc là Mamon.
Người
Pharisêu vốn ham hố tiền bạc nghe các điều ấy thì cười nhạo Đức Giêsu. Ngài bảo
họ: «Các ông làm bộ ra vẻ công chính
trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa biết rõ lòng các ông. Điều cao trọng đối
với người đời thì lại ghê tởm trước mặt Thiên Chúa» (Lc 16:14-15).
Comments
Post a Comment