Hãy cải thiện Giáo Hội từ gốc chứ đừng từ ngọn
Hãy
cải thiện Giáo Hội
từ
gốc chứ đừng từ ngọn
Lời Tòa soạn: (*0) Sau khi bài viết «Cải thiện Giáo Hội...» của Giáo sư Nguyễn Chính Kết được gửi cho mấy
thân hữu, lập tức có một số người cảm thấy ái ngại và chưa muốn phổ biến bài viết
này. Riêng chúng tôi, chúng tôi tự nghĩ một người từ trong hoàn cảnh quốc nội
khó khăn lại dám thẳng thắn và gan liều đóng góp cho công cuộc cải thiện Giáo Hội,
thế thì tại sao chúng ta, những người làm truyền thông Công Giáo tại Hải ngoại,
có hoàn cảnh tự do thuận lợi, được Chúa và Giáo Hội trao cho trách vụ phải loan
báo và làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta lại e dè, lo ngại? Chính ý nghĩ vừa
rồi đã khiến chúng tôi phải mạnh dạn phổ biến các bài viết này với đầy thiện
chí và trách nhiệm trên Diễn đàn «Tiếng
Nói Giáo Dân». Chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp từ mọi phía
và chúng tôi sẽ chuyển tới tác giả như một diễn đàn (forum): «Sự thật sẽ giải phóng chúng ta» khỏi mọi
đình đốn và trì trệ!
(*0) Tòa Soạn ở đây là của trang web Diễn đàn «Tiếng Nói Giáo Dân» tại Orange County, Nam California do ông Hoàng Quý, một giáo dân sáng lập. Trang web này không còn, và người sáng lập cũng đã khuất bóng. Bài viết này được tác giả viết khi tác giả còn ở trong nước.
o0o
Nỗ lực của các Giáo Hội địa phương
Các chủ chăn, các bề trên của các
chủng viện và dòng tu, những người có trách nhiệm trong Giáo Hội từ trước đến
nay thời nào, lúc nào cũng có những ưu tư, nỗ lực cải thiện Giáo Hội, để Giáo Hội
trở nên tinh tuyền, thánh thiện hơn. Điều đó thật đáng quý, đáng khuyến khích.
Nhưng dường như đa số những nỗ lực ấy chỉ nhằm sửa đổi Giáo Hội ở phía «ngọn» chứ không ở tại «gốc». Vì thế, nếu có thành công trong việc
sửa đổi ấy, thì thành quả chỉ có thể tồn tại được một thời gian rất ngắn. Sau
đó tình trạng lại trở về như cũ, và lúc nào cũng đòi hỏi phải có những nỗ lực mới
tương tự. Hễ ngừng nỗ lực cải thiện là lập tức Giáo Hội trở nên «như cũ». Do đó, muốn thật sự cải thiện
Giáo Hội, cần phải cải thiện từ trong cơ chế, từ trong những thói quen hay tập
tục lâu đời của Giáo Hội. Chính những tập tục này liên tục phát sinh những tiêu
cực trong Giáo Hội hết thế hệ này sang thế hệ khác.
Vì thế, nếu các chủ chăn và bề
trên thật sự muốn cải thiện Giáo Hội, thì các ngài cần phải can đảm đặt lại vấn
đề từ nền tảng và sửa đổi theo ánh sáng mà lý trí sáng suốt soi rọi khi xét những
vấn đề nền tảng ấy.
Sau đây là ý kiến của một giáo dân
thật sự thao thức với sự phát triển của Giáo Hội. Vì thế, những ý kiến này là
những suy nghĩ rất thành thật, không muốn thêu dệt thêm chút nào, không muốn cường
điệu hóa vấn đề lên dù chỉ một chút xíu, mà chỉ muốn nói lên một sự thật. Tuy
nhiên, dù không muốn, chắc chắn người viết bài này vẫn không thể tránh được ít
nhiều chủ quan. Và dẫu sao đó cũng chỉ là một cách nhìn một chiều vì là của một
giáo dân nhìn từ dưới lên, cần được kết hợp với những cái nhìn khác của các vị
chủ chăn nhìn từ trên xuống mới có thể toàn diện và khách quan. Dù chỉ là cái
nhìn một chiều, tác giả cũng xin được trình bày cái nhìn của mình để góp phần
làm nên một cái nhìn toàn diện của nhiều người từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Nếu có ai đọc và cảm thấy bị xúc
phạm, hoặc thấy người viết có phần nào quá đáng, thì cũng xin thông cảm và tha
thứ. Chỉ mong người đọc bài này tin tưởng vào thiện chí xây dựng Giáo Hội của
tác giả.
Cơ cấu xã hội độc tài, một «phản mẫu» (*1) cho Giáo Hội
(*1)
«Phản mẫu» (anti-exemplaire):
là một mẫu gương mà Giáo Hội nên tránh.
Để rộng đường suy luận về những vấn
đề trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên suy nghĩ về vấn đề cơ cấu của những xã hội
độc tài, đảng trị, để từ đó rút ra những bài học cho Giáo Hội.
Hiện nay, trong những quốc gia độc
tài, đảng trị, chuyên chế và độc đảng (như Trung Quốc, Đại Hàn, Cuba, Iraq, và
một vài nước khác), một người dân nếu muốn đem tài năng ra để phục vụ xã hội một
cách hữu hiệu, hoặc muốn tiến thân trong xã hội, thì phải gia nhập đảng, phải
trở thành đảng viên của cái đảng duy nhất ấy. Gia nhập đảng thì sẽ được nhà nước
tạo mọi điều kiện để thăng tiến trong xã hội, chẳng hạn được học hành, tu nghiệp,
học hành xong thì được giao quyền hành để điều khiển xã hội, v.v… Ngoài ra, còn
biết bao những đặc quyền đặc lợi kèm theo cho những ai đã gia nhập đảng hoặc đã
được đảng giao quyền hành, địa vị trong xã hội. Còn những ai không gia nhập đảng,
thì dù có tài năng hay đức độ cách mấy cũng khó mà ngoi lên trong xã hội, khó
mà được giao một trọng trách nào quan trọng phù hợp với khả năng và đức độ của
mình để có thể phục vụ xã hội một cách tương xứng. Nhưng nếu chỉ như thế thì
không đến nỗi nào. Tệ hơn nữa, một thể chế hay cơ cấu xã hội như thế còn sản
sinh ra những người lãnh đạo xã hội bất tài thất đức, gây thiệt hại rất nhiều
cho quê hương, làm đất nước chậm tiến bộ hẳn lại.
Thật vậy, là người ai mà chẳng muốn
sướng thân, chẳng muốn thăng tiến trong xã hội. Nhưng những người tài đức nhiều
khi lại không thấy lý tưởng của đảng thích hợp với mình, và họ không đủ tính «vô liêm sỉ» để vào đảng hầu được dễ tiến
thân hơn những người bình thường khác. Thế là họ bị loại bỏ khỏi những điều kiện
tốt để thăng tiến. Do đó, muốn thăng tiến trong xã hội, họ phải đem hết tài
năng và đức độ của họ ra để phấn đấu và vượt thắng trong một môi trường hết sức
khó khăn: một «miếng thịt» mà hàng
trăm người nhìn thèm thuồng, một «cái ghế»
mà hàng ngàn người muốn giành giật.
Nếu có giành được «miếng thịt» hay «cái ghế» ấy, thì họ lại còn phải đối phó với cái cảnh «trâu buộc ghét trâu ăn» nữa. Không vào đảng,
dẫu có giành được «miếng thịt» hay «cái ghế» ấy thì cũng khó mà giữ được,
cho dù chỉ là những «miếng thịt» hay «cái ghế» hạng thấp, vì những «miếng thịt» hay «cái ghế» hạng cao thì không bao giờ dành cho họ, những người ở
ngoài đảng.
Vì thế, những người bất tài thất đức
– vốn cũng rất muốn những «miếng thịt»
hay «cái ghế» ấy, và nhiều khi còn muốn
hơn ai hết – sẽ tìm con đường dễ nhất để đạt tới. Vì nếu đi theo con đường
chung của mọi người, thì họ – vốn kém cỏi hơn mọi người – sẽ chẳng bao giờ ngoi
lên được! (*2)
(*2)
Napoléon nói: «Có hai loại thú có
thể lên tới đỉnh núi cao chót vót: loại đại bàng và loại bò sát. Đại bàng tượng
trưng cho hạng chính nhân quân tử, tài cao đức trọng, họ tiến thân trong xã hội
bằng chính tài đức của mình. Bò sát tượng trưng cho hạng tiểu nhân, họ tiến
thân trong xã hội bằng nịnh nọt, luồn cúi, đội trên đạp dưới».
Do đó, họ sẽ phải nghĩ tới phương
tiện dễ nhất, ít chông gai nhất, là gia nhập đảng. Chỉ cần được huấn luyện
trong trường đảng một thời gian, sau một số thử thách chủ yếu về việc trung
thành với đảng hơn là về tài năng và đạo đức, họ sẽ được giao cho một nhiệm vụ,
với một chức vụ, và một số đặc quyền đặc lợi nào đó. Địa vị, tiền bạc, quyền lực,
uy tín, sự kính trọng – mà nếu không vào đảng, họ khó hoặc không thể với tới được
– mặc nhiên đi theo sự đề bạt ấy của đảng và nhà nước. Cuộc đời họ, nếu không
phạm những lầm lỗi trầm trọng, sẽ ngày càng thăng tiến trên bậc thang danh vọng
đã tiền định cho họ. Thật là một cơ hội dễ dàng để thăng tiến ngoài xã hội cho
những ai chấp nhận vào đảng. Và con đường dễ dàng ấy quả thật hấp dẫn cho những
kẻ bất tài muốn leo thang trong xã hội. Thế là biết bao kẻ bất tài thất đức sẽ
lọt vào số những người nắm quyền lãnh đạo xã hội.
Động cơ để vào đảng nếu không phải
là phục vụ nhân dân cho bằng để tiến thân ngoài xã hội, để làm giàu, để có quyền
lực trong tay, thì khi đã đạt được những thứ ấy, làm sao họ có thể phục vụ dân
chúng được. Họ không có tài đức, làm sao có thể làm cho dân giàu nước mạnh được?
Đương nhiên, họ sẽ trở thành những tham quan, chuyên hối lộ, tham nhũng, đục
khoét tài sản quốc gia. Đối với dân chúng, họ sẽ hống hách, cửa quyền, áp bức,
bóc lột dân chúng. Tư cách thì đội trên đạp dưới. Khi đất nước lâm nguy, họ sẵn
sàng làm đủ mọi cách để được an toàn bản thân và gia đình. Nếu cần phản bội tổ
quốc để được an toàn, họ cũng sẵn sàng. Quốc gia sẽ ngày càng tụt hậu, dân
chúng lầm than, nghèo khổ. Thực tế cho thấy những quốc gia đi theo con đường độc
tài, đảng trị và độc đảng đều gặp thảm trạng trên.
Giáo Hội không nên đi vào mô hình cơ cấu
ấy
Một cơ cấu xã hội như thế đang bị
các dân tộc trên thế giới đả phá, bài trừ, vì nó rất dở, rất phản khoa học và đạo
đức, không đem lại tiến bộ cho đất nước và xã hội. Hiện nay, hầu hết các nước
trên thế giới đã bỏ, thậm chí bài bác tích cực những mô hình cơ cấu xã hội như
thế. Chỉ còn một vài quốc gia – rất thiểu số – vẫn áp dụng mô hình cơ cấu xã hội
ấy mà thôi. Họ duy trì mô hình cơ cấu này không phải vì họ không biết nó dở nó
tệ, mà vì họ vẫn muốn tiếp tục nắm quyền để tiếp tục vơ vét cho bản thân, cho
gia đình họ. Và những quốc gia này quả thực là những nước kém tiến bộ, và nhân
dân thường là bị áp bức, nhiều bất công và lắm đau khổ.
Nhưng thử xét xem, Giáo Hội chúng
ta có mô hình cơ cấu tương tự như thế không? Thành thực mà nói, nếu phải kể tất
cả những tập thể mang tính xã hội đang áp dụng những mô hình cơ cấu như thế hoặc
tương tự như thế, chúng ta phải kể trong đó có Giáo Hội Công giáo, ít là Giáo Hội
Công giáo địa phương của chúng ta. Thật vậy, có một sự song đối (parallélisme)
nào đấy rất rõ rệt giữa cơ cấu xã hội của những nước nói trên với cơ cấu Giáo Hội.
1)
Trước hết, về tính độc tài, thiếu dân chủ:
Trong những xã hội độc tài, đảng
trị, người dân không bao giờ được chọn người lãnh đạo mình, mà đảng chọn thay
cho người dân. Nếu có bầu cử thì chỉ là một hình thức lừa mị dân, làm cho «có vẻ dân chủ» mà thôi. Giáo Hội Công
giáo có phần nào như vậy, kể từ thế kỷ thứ 4 trở đi (*3), người dân chẳng bao
giờ được bầu người lãnh đạo của mình. Chức năng «vương đế» của Đức Giêsu mà người giáo dân lãnh nhận khi chịu phép rửa
tội được hiểu là tính phục vụ, là được làm người dân trong một vương quốc Giáo
Hội, nghĩa là «được cai trị» (theo
nghĩa thụ động). Chỉ có hàng giáo sĩ thì mới thật sự «cai trị» (theo nghĩa chủ động) (*4) mà thôi. Đáng lẽ khi chủ trương
chức năng «vương đế» tức «làm chủ», Giáo Hội phải dân chủ hơn tất
cả mọi quốc gia trên thế giới mới đúng!
(*3)
Từ thế kỷ thứ 4 trở về trước, có những trường hợp những người lãnh đạo
Giáo Hội là do dân bầu lên, chẳng hạn trường hợp thánh Ambrôsiô (340-397), một
giáo phụ của Giáo Hội, được bầu lên từ một giáo dân lên làm tổng giám mục thành
Milan. Ngài là
một vị giám mục tài ba, lỗi lạc. Nếu ở vào thời này, ngài chỉ có thể vĩnh viễn
là một giáo dân!
(*4)
Hiểu như thế thì thật là nghịch lý. Đúng lý phải hiểu chức năng «vương đế» là chức năng «làm chủ». Người Kitô hữu nào cũng được mời
gọi làm chủ: trước hết là làm chủ bản thân, rồi đến gia đình, xã hội, Giáo Hội,
làm chủ ngoại cảnh. Có như thế thì mới phù hợp với phẩm chất là «hình ảnh của Thiên Chúa» chứ! «Bị trị» thì hoàn toàn nghịch nghĩa với «làm chủ»!
2)
Về tính chuyên chính:
Giáo Hội cũng không khác gì những
xã hội kia. Thật vậy, trong Giáo Hội, lập trường tư tưởng thần học nào khác với
tư tưởng thần học truyền thống đều bị kết án! Nói chung, chỉ có một lập trường
thần học chính thống duy nhất, không có «đối
lập». Chính vì chủ trương thống nhất đức tin trong từng chi tiết mà biết
bao giáo phái đã phải trở thành ly giáo! Cho đến ngày nay, Giáo Hội vẫn không
thể chấp nhận tính đa dạng về mặt tư tưởng trong thần học. (*5)
(*5)
Thần học gia nào có tư tưởng khác lạ thì lập tức bị khuyến cáo, cấm viết
sách. Nếu vẫn kiên quyết với lập trường của mình thì có thể bị vạ tuyệt thông.
Nếu bị vạ tuyệt thông mà vẫn tiếp tục kiên quyết với lập trường của mình thì trở
thành ly giáo. Trong lịch sử Giáo Hội, có biết bao giáo phái ly giáo! Ngay cả
những vị cột trụ về thần học của Giáo Hội như Karl Rahner, Yves Congar… cũng đã
từng bị cấm giảng dạy, xuất bản sách…
3)
Về tính đảng trị:
Nếu những xã hội kia là đảng trị,
thì Giáo Hội là giáo sĩ trị. Trong những xã hội kia, muốn phục vụ xã hội một
cách hữu hiệu, hoặc muốn ngoi lên trong bậc thang xã hội thì phải vào đảng; còn
trong Giáo Hội, nếu muốn phục vụ Giáo Hội cách hữu hiệu hoặc muốn tiến thân
trên những bậc thang của Giáo Hội thì nhất thiết phải gia nhập hàng giáo sĩ.
Không là giáo sĩ mà chỉ là giáo dân thì dù có tài đức đến đâu, cũng chỉ cao lắm
là làm trưởng một hội đoàn công giáo tiến hành thôi! Có làm được tới đấy thì
cũng vẫn luôn luôn phải dưới quyền một số giáo sĩ, dù tài đức hay tầm nhìn của
những giáo sĩ này kém hơn mình! Khi Giáo Hội cần những người lãnh đạo, thì tuyệt
đối chỉ chọn người đã gia nhập hàng giáo sĩ. Cho dù hàng giáo sĩ có thiếu người
tài đức để chọn đến đâu thì Giáo Hội cũng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện tuyển
chọn trong hàng ngũ giáo dân! (*6)
(*6)
Thật ra đây cũng chẳng phải là truyền thống nguyên thủy của Giáo Hội, vì
cho tới thế kỷ thứ 4, những người như thánh Ambrôsiô, thánh Augustinô, v.v… đều
là người giáo dân được giáo dân bầu chọn và đưa thẳng lên làm giám mục, chẳng cần
phải là giáo sĩ rồi mới được chọn. Giáo Hội đã bắt đầu bỏ truyền thống tốt đẹp
này từ thế kỷ thứ 4 trở đi.
4)
Về những đặc quyền đặc lợi mặc nhiên cho những người vào đảng:
Đảng viên có những đặc quyền đặc lợi
một cách mặc nhiên, không nhất thiết phải tương xứng với tài đức, thì các giáo
sĩ cũng tương tự như thế. Chẳng hạn về mặt kinh tế, những linh mục bình thường
có thể kiếm tiền một cách dễ dàng hơn rất nhiều so với những giáo dân bình thường.
Thử so sánh hai người có khả năng và đạo đức ngang nhau, sống trong cùng một
phường hay quận, nhưng một người là linh mục, một người chỉ là giáo dân.
● Xét về thù lao cho công việc của
hai người, ta thấy có một sự chênh lệch hết sức rõ ràng: một người phải vất vả
lắm, phải làm việc cả ngày và suốt tháng mới kiếm được 3 triệu một tháng để
nuôi cả gia đình (*7), còn người kia có thể kiếm được gấp đôi hoặc cả 10 triệu một cách
ngon lành mà công việc thì chẳng đến nỗi nặng nhọc, và cũng chẳng phải nuôi nhiều
người bằng một giáo dân.
(*7) Bài này viết vào thời điểm trước năm 2000, lương tháng thời ấy là như vậy.
● Xét về trách nhiệm thì trách nhiệm
của một linh mục được trải rộng trên nhiều người, nhưng trách nhiệm ấy chẳng đến
nỗi cấp bách và nặng nề. Vả lại nặng nề hay không còn tùy thuộc vào lương tâm của
mỗi người, và nói chung giáo sĩ được tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn để chu
toàn trách nhiệm của mình. Còn trách nhiệm của một giáo dân thường chỉ trải
trên một số nhỏ người thôi, nhưng lại rất cấp bách và nặng nhọc, ít được tạo điều
kiện thuận lợi để chu toàn.
Khi làm việc ngoài xã hội, thì người
giáo dân dường như luôn luôn được trả công. Còn khi làm việc cho Giáo Hội thì
sao? Người giáo dân nào muốn góp phần xây dựng Giáo Hội thì phải tự nguyện làm
theo kiểu «công quả», ít khi được xét
đến để trả công tương xứng, cho dù được nhờ làm. Phải chăng chỉ có Chúa là người
duy nhất trả công bội hậu cho họ ở đời sau? Còn linh mục thì hầu như luôn luôn
được Giáo Hội hoặc giáo dân «thù lao» (*8)
một cách cụ thể và khá bội hậu. Không biết Chúa có còn phải «thù lao» thêm nữa không, vì các vị đã nhận «thù lao» rồi? Có thể nói giáo
dân không được tạo điều kiện để có thể tích cực góp phần vào việc xây dựng Giáo
Hội. Họ ít được Giáo Hội quan tâm đào tạo, và có được đào tạo thì họ cũng không
được tạo điều kiện để có thể dành nhiều thì giờ làm việc cho Giáo Hội như hàng
giáo sĩ.
(*8)
Nói «trả công» thì có vẻ xúc
phạm!
5)
Về chỗ đứng ngoài xã hội hay trong Giáo Hội:
Vừa được thụ phong linh mục là
linh mục được mọi giáo dân – dù là già cả, là đáng tuổi cha mình – gọi bằng «cha», được mọi người xưng là «con» với mình một cách thật ngọt ngào,
và mặc nhiên được đối xử và kính trọng không khác gì cha thật của họ. Một giáo
dân có tài đức cách mấy, có được tôn trọng cách mấy thì cũng chẳng bao giờ có
được một hân hạnh như vậy! Vì thế, nhiều người trong các ngài nghĩ rằng mình xứng
đáng được như vậy, hay ít ra cách đối xử với người khác của các ngài chứng tỏ
các ngài đang nghĩ như vậy. (*9)
Vấn đề quan trọng không nằm ở chỗ các ngài được gọi bằng «cha», mà ở chỗ các ngài có đối xử với giáo dân đúng với tư cách «cha» của mình hay không?(*10)
(*9) Một số linh mục tự xưng mình là
«cha» một cách rất tự nhiên, không phải
chỉ với những kẻ nhỏ tuổi hơn mình, mà với cả những người lớn tuổi hơn mình,
trí thức hơn mình! Cũng có những linh mục xưng hô «mày, tao» một cách cũng rất tự nhiên với cả những giáo dân lớn tuổi
hơn mình, thậm chí bằng tuổi cha mình! (Tôi bảo đảm những điều này là rất thật!)
Vấn đề quan trọng không nằm ở chỗ các ngài được gọi bằng «cha», mà ở chỗ các ngài có đối xử với giáo dân đúng với tư cách «cha» của mình hay không?(*10)
(*10)
Một người cha dạy học cho con, dù là con đẻ hay con nuôi, không bao giờ
lại đòi hỏi con mình phải trả thù lao cho mình thì mình mới dạy. Nếu đòi hỏi nó
phải trả thù lao, ắt ông ta đã đối xử với con như một thầy giáo chứ không phải
là cha! Thầy giáo mà lấy tiền học của học trò thì rất là chính danh, nhưng cha
mà lấy tiền học của con thì chẳng chính danh chút nào! Thử hỏi một người cha
đích thực khi lấy vợ lấy chồng cho con mình thì người cha ấy phải hy sinh thế
nào, còn người «cha» làm linh mục khi
người «con» là giáo dân lấy vợ lấy chồng
thì ngài hy sinh cho người «con» ấy
thế nào? Cách biểu lộ tình cảm thông thường của các linh mục trong những trường
hợp giáo dân lập gia đình, hay chết có thật chính danh là «cha» của họ không? – Tôi nhận thấy thông thường, giáo dân xử sự với
linh mục khá chính danh là người «con»
của linh mục, nhưng cách xử sự của linh mục đối với giáo dân thì lại thường
không chính danh là «cha» của họ chút
nào.
Sau đây là một sự kiện không phải
là hiếm xảy ra mà biết bao giáo dân phải đau lòng nhận thấy. Có những người khi
còn là «thầy» – tức thầy đại chủng viện
– thì cử chỉ rất khiêm nhu, tinh thần đầy tính phục vụ, cách xử sự rất dễ
thương. Nhưng chỉ một vài tháng hay một vài năm sau, khi người ấy đã biến thành
«cha» – nghĩa là đã được thụ phong
linh mục – thì cũng vẫn con người ấy nhưng đã có sự thay đổi: cử chỉ thì kênh
kiệu hơn, tinh thần thì đổi thành «thích
được phục vụ» hơn, thậm chí đòi hỏi phải được phục vụ, cách xử sự thì không
còn dễ thương như trước. Nhiều giáo dân rất thắc mắc về sự kiện này, vì họ thấy
chức thánh mà vị giám mục truyền cho một số linh mục quả thật có khả năng biến
đổi linh mục ấy, nhưng lại một theo chiều hướng khá… ngộ nghĩnh!
Sự biến đổi trong nội tâm ra sao
khó mà thấy được, nhưng sự biến đổi bề ngoài thì rất rõ rệt: bớt thánh thiện
đi, lãnh đạm với mọi người hơn, thích làm cao hơn, «cái tôi» lớn hơn, phân biệt đối xử hơn, v.v… Tất cả những hiện tượng
ấy xảy ra phải chăng vì khi làm linh mục, thì mặc nhiên người ấy có một số đặc
quyền đặc lợi nào đó, mặc nhiên được tôn trọng, mặc nhiên lời nói trở nên «nặng ký» hơn, v.v… Sự biến đổi nhanh
chóng và dễ dàng ấy chứng tỏ rằng bản lãnh của những linh mục được đào tạo còn
rất yếu, mới sử dụng quyền bính và được hưởng một số đặc quyền đặc lợi một chút
mà đã bị tha hóa rồi!
6)
Xét về cách tạo uy thế và sự kính trọng:
Các chế độ độc tài thường thần
thánh hóa các lãnh tụ, tìm đủ cách đề cao những người lãnh đạo cao cấp trong xã
hội. Trong những đất nước dân chủ, không có sự thần thánh hóa này: sự kính trọng
của người dân đối với những người lãnh đạo ở mức vừa phải, hợp lý, tùy theo đức
độ và tài năng của người lãnh đạo. Còn trong Giáo Hội, phải nói rằng trong Giáo
Hội, việc thần thánh hóa hàng giáo sĩ là có thật và vẫn còn tồn tại cho tới
ngày nay. Chức linh mục được mặc nhiên coi là chức thánh, con người linh mục được
mặc nhiên coi là con người thánh, cho dù có nhiều linh mục chẳng thánh một chút
nào. Xúc phạm tới linh mục – nói xấu, đánh đập, v.v… – được mặc nhiên coi là một
tội «phạm sự thánh». Còn cách nào đề
cao các linh mục hơn như thế? (*11) Về phương diện này, các chế độ độc tài hẳn
phải thua xa!
(*11) Trong cuốn «Tôi làm linh mục» và «Con tôi
làm linh mục» xuất bản trước 1975, có những đoạn đề cao linh mục: linh mục
cao trọng hơn các thiên thần, thậm chí ở một khía cạnh nào đó hơn cả Đức Maria! Vì linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thì Chúa cũng phải biến bánh và rượu thành chính Ngài, đó là điều mà Đức Maria và các thiên thần không làm được!
7)
Xét về quyền:
Linh mục được ban cho rất nhiều
quyền hơn người giáo dân. Và quyền này – trên bình diện xã hội hoặc Giáo Hội –
một cách nào đó, được xây dựng trên «cơ
chế xin-cho». Một đặc trưng trong cơ cấu của những xã hội độc tài kia là «cơ chế xin-cho», thì trong Giáo Hội cũng
có một đặc trưng y như thế suốt bao thế kỷ nay. Người giáo dân cứ việc tự do chọn
lựa giữa xin và không xin, còn giáo sĩ thì cũng tự do chọn lựa giữa cho phép và
không cho phép, giữa đồng ý và không đồng ý.
Dường như không có những luật lệ
nhất định, khách quan, rõ ràng và mang tính tất yếu buộc người giáo sĩ phải cho
phép hoặc phải đồng ý khi người giáo dân có đủ những điều kiện nào đó, mà nếu
không cho phép hay đồng ý, thì giáo sĩ ấy phải bị chế tài một cách nào đó cụ thể.
Tôi vừa mới chứng kiến một trường hợp hôn nhân có hoàn cảnh hơi đặc biệt mà cha
sở của họ thì từ chối, điều đó buộc đôi nam nữ phải xin làm đám cưới ở một xứ
khác. Cha ở xứ khác ấy thì chấp nhận, còn chính cha sở thì không. Đương nhiên
người giáo dân ấy cũng phải biết điều với cha sở đã cho phép. «Cơ chế xin-cho» mà! Xin rồi được cho thì
phải biết ơn chứ! «Cơ chế xin-cho»
này mặc nhiên biến giáo sĩ thành những kẻ ban ơn, và biến giáo dân thành những
kẻ thụ ơn!
Giáo dân nào có tính bất khuất
không chịu thụ ơn, không chấp nhận «cơ chế
xin-cho» thì sẽ bị kẹt ngay về phần linh hồn, rất có thể bị nguy hiểm cho
phần rỗi, vì sẽ chẳng được «ăn mày các
phép»! Thanh niên Công giáo làm đám cưới mà không vào nhà thờ chịu phép hôn
phối thì bị mọi người coi là phường vô đạo! Chết mà không được cha làm phép xức
dầu hay làm lễ an táng trong nhà thờ thì thật là vô phúc! Muốn được mấy thứ ấy
thì phải xin cha, và sau khi xin được thì phải biết ơn cha, phải tạ cha! (*12)
Đó chính là «cơ chế xin-cho»!
(*12)ee Điều này đã trở thành một tập
tục rất thông thường trong các xứ đạo, nhất là những xứ đạo người Bắc! Khiến
cho ai không làm như thế thì cảm thấy hết sức ái ngại! Họ thắc mắc không biết
khi họ không làm như thế thì vị linh mục có cảm thấy khó chịu, và coi đó là một
sự bất thường không?
Nhiều cha sở cứ y như là một ông
vua phong kiến ở trong xứ đạo của mình. Có rất nhiều trường hợp cha sở rất dễ
dãi đối với loại người này, nhưng lại rất khó khăn đối với loại người kia. «Cơ
chế xin-cho» đã biến cha sở thành một ông vua hay ông quan có nhiều quyền lực đối
với giáo dân của mình. Có quyền lực là có thể có rất nhiều thứ khác. Một xã hội
mà tạo nên hai hạng người – hạng người phải xin mới hy vọng được điều mình cần,
và hạng người có quyền cho hay không cho – thì trong xã hội ấy lập tức phát
sinh thái độ cầu cạnh, khúm núm, luồn cúi, nô lệ, nịnh nọt, hối lộ, tham nhũng,
v.v… Thật là buồn cười khi nghĩ đến chuyện đã tới thiên niên kỷ thứ ba rồi mà
điều đó vẫn còn tồn tại trong Giáo Hội Việt Nam hiện nay như một việc hết sức
bình thường và tự nhiên. Có lẽ lương tâm của nhiều người không còn khả năng ngạc
nhiên trước tình trạng này! Đó cũng lại là điều đáng ngạc nhiên nữa!
Ảnh hưởng của mô
hình ấy
trên tâm thức những người
đang tiến tới chức linh mục hay giáo sĩ
trên tâm thức những người
đang tiến tới chức linh mục hay giáo sĩ
Điều quan trọng và cần phải nghiêm
túc xét tới là động cơ của những người đang muốn tiến tới chức linh mục hay tu
sĩ. Khi linh mục hay tu sĩ được quá nhiều ưu đãi, được hưởng nhiều đặc quyền đặc
lợi trong xã hội và Giáo Hội so với người giáo dân, thì lập tức chức vụ đó sẽ hấp
dẫn rất nhiều người đạt tới. Hiện nay, ở nước ta, ơn kêu gọi làm linh mục và tu
sĩ phải nói là hết sức phong phú. Đó cũng là điều đáng mừng, nhưng cũng là điều
đáng lo.
Nếu các thiếu niên hay thanh niên
đi tu nhiều như thế chỉ với mục đích phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và tha nhân,
thì quả là «phúc bảy mươi đời» cho
Giáo Hội và xã hội. Nhưng nếu đa số đi tu chủ yếu để có được một cơ hội tiến
thân dễ dàng trong Giáo Hội hay xã hội, hơn là để phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội
và tha nhân, thì điều ấy sớm muộn gì cũng sẽ trở thành một tai họa cho Giáo Hội.
Hiện nay, tôi đã đích thân nghe một số bề trên hoặc giáo sư trong các chủng viện
và dòng tu than phiền về chất lượng của các chủng sinh hay đệ tử của mình. Tai
tôi cũng được nghe rất nhiều giáo dân than phiền về các linh mục của họ. Tôi
không ngạc nhiên, vì cho đó là hậu quả tất yếu của một mô hình cơ cấu Giáo Hội
đã lỗi thời, lỗi thời không khác gì những cơ cấu xã hội có những đặc tính tương
tự.
Trong guồng máy giáo dục, «đầu vào» (input) không chất lượng thì «đầu ra» (output) làm sao có chất lượng
được? Nhất là khả năng giáo dục trong các chủng viện và dòng tu hiện nay ở nước
ta rất giới hạn, vì thiếu tự do trong việc tuyển chọn những người giáo dục. Người
thích hợp nhất, có khả năng và đạo đức nhất, luôn thao thức và sẵn sàng dấn
thân cống hiến đời mình cho việc giáo dục thì trong chế độ độc tài cộng sản hiện nay, các giám mục thường không bổ nhiệm họ được vào tu viện làm người giáo dục hay đào tạo chủng sinh, mà đành phải
chấp nhận chọn những người kém hơn, ít thích hợp hơn (nhà cầm quyền thường dùng quyền veto để từ chối, «cơ chế xin-cho» của xã hội mà!)
Một trong những điều cụ thể đang bị
các bề trên chủng viện hay dòng tu than phiền là các chủng sinh hay đệ tử không
thành thật trong các kỳ thi mãn khóa hay mãn kỳ. Ngày xưa, trước 1975, bất kỳ một
chủng sinh hay đệ tử nào gian lận trong các kỳ thi đều bị phạt ở mức độ nặng nhất
(thường là buộc phải từ bỏ ơn gọi tu trì). Ngày nay, việc thi cử gian lận trong
các trường đào tạo chủng sinh hay tu sĩ cũng khá phổ biến… Điều này cũng thật dễ
hiểu nếu nghĩ đến động lực đã thúc đẩy các chủng sinh hay tu sĩ ấy đi tu. Đi tu
để làm «quan đạo» thì cần gì phải
thành thật như thế, nhỡ không đạt được mục đích thì sao?! Thật là một điều đáng
lo ngại cho chất lượng của các linh mục và tu sĩ tương lai.
Một số đề nghị sửa đổi
Muốn những tình trạng trên không
còn xảy ra, muốn cải tạo chất lượng của các chủng sinh, đệ tử, hay các linh mục
được đào tạo, mà chỉ dùng những biện pháp này biện pháp kia thì chỉ là cải tạo
cái ngọn. Cái gốc của sự băng hoại này nằm ở trong mô hình cơ chế của Giáo Hội.
Muốn cải thiện thì phải cải thiện từ gốc, chứ cải thiện ở trên ngọn thì chỉ tốn
công, vì sau cùng thì đâu lại vào đấy!
Sự cải thiện từ gốc thì chỉ có những
bậc có trách nhiệm lớn nhất trong Giáo Hội toàn cầu hay Giáo Hội địa phương mới có khả năng làm nổi.
Và có bắt đầu làm thì ít nhất cũng phải mấy thập niên mới có kết quả. Nhưng nếu
không bắt đầu thì chỉ có nước chờ Giáo Hội trở thành một thứ «muối đã lạt, chỉ còn nước quăng ra ngoài cho
người ta chà đạp» thôi (Mt 5,13). Các bề trên của các chủng viện hay dòng
tu chỉ có thể góp ý lên các vị chủ chăn trong Giáo Hội để chính các vị cải thiện
tận gốc mà thôi. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi một đáp ứng từ phía trên, các chủng
viện và các dòng tu cần phải quan tâm tới việc «thanh lọc» và «thanh luyện»
động cơ thúc đẩy các tu sinh tiến tới chức linh mục hay tiếp tục đời sống tu
trì.
Phải «thanh lọc» đầu vào (input): chỉ nhận vào chủng viện và dòng tu những
người có động lực phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và tha nhân, đồng thời thật sự
muốn dấn thân làm chứng nhân Tin Mừng cho mọi người. Phải tìm đủ mọi cách có thể để
xác định được động lực của từng ứng viên. Hãy dứt khoát loại bỏ những người
không có động lực ấy dù đạo đức hay khả năng cá nhân của họ có tốt hay giỏi đến
đâu đi nữa. Trong tiêu chuẩn để nhận vào chủng viện hay dòng tu, phải coi động
lực là yếu tố tối quan trọng chứ không phải là đạo đức hay khả năng cá nhân.
Phải «thanh luyện» động lực của những người đã được nhận vào: Luôn luôn
phải củng cố tình yêu đối với Thiên Chúa, Giáo Hội và tha nhân, tinh thần nhiệt
thành với công việc tông đồ. Phải có một chuyên viên thật sự có khả năng về huấn
luyện tâm linh để giúp các chủng sinh hay đệ tử loại bỏ những động lực trần tục
trong việc tu trì. Phải coi yếu tố này là yếu tố chủ yếu trong việc đào tạo đạo
đức và tâm linh. Cần nhấn mạnh nhiều hơn đến chức năng «làm chủ» (=vương đế), «làm chứng»
(=ngôn sứ). Trước đây, Giáo Hội chủ huấn (Église enseignante) đã quá chú trọng
tới chức năng «làm lễ» (=tư tế) mà
coi nhẹ hai chức năng kia. Điều này củng cố «cơ chế xin-cho» trong Giáo Hội, tăng uy thế và tạo thêm đặc quyền đặc
lợi cho hàng giáo sĩ. Điều ấy còn có phần nào làm tăng thêm độ giống nhau giữa
các linh mục và những «thầy cúng» ở
trong mấy tôn giáo khác, đồng thời cũng biến việc thờ phượng mang nhiều tính
hình thức. Hãy xét lại xem Đức Giêsu thường chú trọng tới chức năng nào.
Chỉ nên chấp nhận cho làm linh mục
những người chứng tỏ được lòng nhiệt thành với Giáo Hội và các linh hồn, hơn là
dựa vào tiêu chuẩn đạo đức cá nhân. Linh mục là người của Giáo Hội và xã hội,
chứ không phải là của bản thân mình, nên tính giáo hội (ecclesialité) và xã hội
(sociabilité) phải rất cao.
Khá nhiều linh mục không có ý thức
về xã hội, về trách nhiệm đối với xã hội, làm như làm linh mục thì chỉ có trách
nhiệm đối với Giáo Hội chứ không còn trách nhiệm đối với xã hội nữa! Nhiều linh
mục không có ý thức về công bằng xã hội: có những cha có thể để người khác nấu ăn
cho mình suốt đời mà không hề nghĩ tới chuyện trả lương xứng đáng cho họ! Có những
cha nhờ các soeurs làm đủ mọi việc: giúp dạy giáo lý, dọn đồ lễ, coi ca đoàn,
thậm chí giặt quần áo cho mình, mà chẳng hề nghĩ đến công lao của họ một cách xứng
đáng! Có những cha còn coi các soeurs như người ở của mình! Nhiều cha không
trân trọng và đối xử công bằng cho đủ đối với những người cộng tác với mình,
giúp mình thi hành tốt chức vụ linh mục! Cách đây mấy năm, tại Hố Nai, thuộc
giáo phận Xuân Lộc, có một cha xứ bạt tai một nữ tu ngay trong nhà thờ, trước mặt
giáo dân tới dự lễ hôm đó, chỉ vì một chuyện không đáng! Phải nói đó là một
scandale trong Giáo Hội!
Thiết tưởng đã là Kitô hữu thì phải
có một mức độ lịch sự tối thiểu buộc phải có đối với tha nhân, bất kỳ là ai,
chưa nói tới tình thương hay bác ái. Thiết tưởng các linh mục cũng cần được nhắc
nhở về những lịch sự tối thiểu này. Đây là một thực tế do chính tôi cảm nghiệm:
tới nhà các giáo dân, tôi thường được mời ít nhất một ly nước trà hay nước lạnh,
có người mời một điếu thuốc, họ coi đó như một cái gì tối thiểu phải làm để tỏ
lòng tôn trọng hay quí mến khách. Nhưng tới nhà các linh mục, tôi thấy họa hiếm
lắm mới có linh mục cho uống nước! Các giáo dân khác cho tôi biết họ cũng thấy
như thế. Điều đó nói lên cái gì?
Một trong những điều dễ thấy nơi
nhiều linh mục là không thích nghe ai góp ý, không thích nghe ai nói ngược với
mình! Cái gì cha nói, cha nghĩ cũng đều đúng, không cần phải bàn lại! Khi xây
nhà thờ, cha tỏ ra giỏi hơn cả kiến trúc sư! Trong nhiều lãnh vực, cha tỏ ra
thông thạo hơn cả các nhà chuyên môn về những lãnh vực ấy! Đã giỏi hơn, thông
thạo hơn, thì ắt chẳng cần phải nghe góp ý làm gì!
Mong chờ và hy vọng
Ý thức về dân chủ, tự do, bình đẳng
trong xã hội đã bắt đầu từ thế kỷ 18 với Montesquieu (1689-1755), và càng ngày
càng được thế giới nhìn nhận là những yếu tố nền tảng và căn bản để người dân sống
hạnh phúc, để xã hội được thăng tiến. Các quốc gia trên thế giới ngày càng nỗ lực
để thực hiện ý thức đó trong đất nước của mình. Những quốc gia không tôn trọng
những yếu tố nền tảng ấy đều bị thế giới lên án.
Còn Giáo Hội thì sao? Ý thức về
dân chủ, tự do, bình đẳng đã được nhấn mạnh và tôn trọng trong Giáo Hội chưa?
Theo tinh thần Hiến chế Gaudium et Spes của Công Đồng Vatican II, Giáo Hội phải
đồng hành với con người, phải hòa nhập và thích ứng với thế giới. Nhưng dường
như Giáo Hội vẫn có phần nào là một ốc đảo. Những ý niệm về dân chủ, tự do,
bình đẳng dường như vẫn là những ý niệm xa lạ với nhiều vị lãnh đạo trong Giáo
Hội! Một cách nào đấy, Giáo Hội vẫn giống với một xã hội độc tài, đảng trị, và
độc đảng, như đã nói trên. Điều ấy chắc chắn có hại cho sự phát triển của Giáo
Hội, khiến Giáo Hội bị coi là tụt hậu, bảo thủ…
Rất mong Giáo Hội có một tinh thần
khoáng đạt hơn, mạnh mẽ hơn, dấn thân hơn, chú trọng tới nội dung và tinh thần
hơn hình thức và vật chất.
Trong ý thức về dân chủ, tự do,
bình đẳng, rất mong Giáo Hội tạo điều kiện đồng đều cho mọi thành phần trong
Giáo Hội có khả năng góp phần xây Giáo Hội, thay vì chỉ quan tâm tới một thành
phần vốn được ưu đãi xưa nay…
Riêng về các linh mục và tu sĩ, rất
mong những thế hệ linh mục và tu sĩ tương lai của Giáo Hội ngày càng có chất lượng
hơn, về mọi mặt, tài năng, kiến thức, nhất là về mặt đạo đức và đời sống tâm
linh. Chỉ như thế Giáo Hội mới hoàn thành được sứ mạng mà Đức Giêsu giao phó
cho Giáo Hội.
Nguyễn Chính Kết
(Gò Vấp, 1998)
Comments
Post a Comment