00 Tác Giả ‒ Lời Mở Đầu


Tác giả

Joseph F. Girzone là một Linh mục Công Giáo Rôma. Về hưu năm 1981 vì lý do sức khỏe. Sau đó cha đã bước vào nghề viết sách, làm kinh ngạc hàng triệu độc giả với tác phẩm Giôsê (Joshua). Hiện cha đương sống tại Altamont, New York, USA. Những tác phẩm bán chạy nhất của cha là:
•     Giôsê (Joshua)
đã được dịch sang Việt ngữ năm 1995
•     Joshua and the Children
•     The Shepherd
•     Never Alone
•     Joshua in the Holy Land
•     Joshua and the City
•     Chân Dung Đức Giêsu (Portrait of Jesus)

Lời mở đầu

Tôi yêu thích công việc linh mục của tôi. Tôi thích cộng tác với người cùng tín ngưỡng, với dân chúng và giáo sĩ các tôn giáo khác. Chúng tôi hợp tác với nhau cách tốt đẹp. Điều đáng buồn là vẫn còn có giáo sĩ giữ thái độ lạnh lùng và không hòa đồng với người của các tôn giáo khác, họ nghĩ rằng tôn giáo của mình là chính, và theo họ nếu có lộ vẻ ủng hộ các tôn giáo khác là mang tội. Tôi nghĩ rằng đó là thái độ cách đây không lâu lắm của những người Công giáo chúng ta, và bây giờ vẫn còn có những người như thế. Nhưng đối với những ai trong chúng ta đã bỏ được thái độ ấy thì sẽ quí trọng lẫn nhau và thấy rằng mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương, và mỗi người diễn tả một phương diện nào đó của Đức Giêsu mà người khác không lưu ý đến. Chúng ta ai nấy đều quan tâm đến công việc của mình, đến dân chúng của mình, đến công việc tốt xấu trong cộng đồng.
Tuy nhiên, phải một thời gian lâu lắm tôi mới ý thức rằng còn có cái gì thiếu sót trong lối hành đạo của chúng ta, và điều này làm cho tôi rất ái ngại. Chúng ta ai cũng nhạy cảm đối với phong tục tập quán của giáo hội mình. Chúng ta ý thức và quan tâm đến những vấn đề cộng đồng. Các giáo sĩ thì lại lo lắng bảo vệ đức tin của tín đồ và lo sao cho họ trung thành với nhà thờ hay hội đường của mình. Điều này không có gì sai. Nhưng một ngày nọ tôi cảm thấy rằng chúng ta chỉ quan tâm đến nhà thờ và hội đường của mình mà ít quan tâm đến điều Thiên Chúa muốn. Dẫu sao thì Thiên Chúa là tôn giáo của chúng ta. Các nhà thờ hay hội đường cũng chỉ là phương tiện để mang lại sứ điệp của Thiên Chúa. Mỗi tôn giáo dạy nhiều điều khác nhau, dường như Thiên Chúa không phải là một, dường như ngài không phải là một Thượng đế thông minh và quan tâm đến một thế giới đang tìm kiếm ủi an. Tôi bắt đầu ý thức rằng chúng ta đang theo nhiều hướng quá trong khi Thiên Chúa chỉ là một. Người Công giáo thì yêu mến Giáo hội của mình và bo bo ôm giữ lề luật và phong tục của Giáo hội. Người Tin Lành thì chỉ biết có Kinh Thánh và lối giải thích Kinh Thánh của họ, cũng như chỉ biết có giáo sĩ và những điều đố kỵ của tôn giáo mình mà hờ hững đối với người tội lỗi. Người Do thái thì muốn giữ riêng dòng máu của họ và làm mọi cách để dân chúng đừng lại gần những người Kitô, dường như tin ở Thiên Chúa không quan trọng lắm và cũng chẳng quan tâm đến điều Thiên Chúa muốn. Một người Do thái có thể là vô thần hay bất khả tri cũng chẳng sao, nhưng nếu họ theo đạo Kitô là điều không thể tưởng tượng được và sẽ bị tuyệt thông. Cách đây không lâu lắm người ta còn dán yết thị trước nhà người đó. Những điều nói trên làm chia cách chúng ta, tạo nên một bức tường vô hình ngăn cách trong khi bên ngoài thì ca ngợi hiệp nhất qua những nghi lễ có vẻ thân thiện. Tôi có cảm tưởng rằng người ta không quan tâm lắm đến điều Thiên Chúa muốn. Thỉnh thoảng cũng có những điều tốt đẹp xảy ra như trường hợp giữa họ đạo Lutêran và họ đạo của tôi. Vị mục sư và tôi thân thiện với nhau. Chúng tôi đi dự lễ của hai bên. Chúng tôi cầu nguyện chung với nhau. Hai họ đạo cử hành các nghi thức phụng vụ chung nhau. Chúng tôi cũng xin hai giám mục của đôi bên ban phép thêm sức cho trẻ con của đôi bên. Chúng tôi hiệp nhất với nhau. Điều này cũng xảy ra với các họ đạo địa phương như Do thái và Chính thống giáo. Chúng tôi bàn thảo về việc tín đồ của tôn giáo này có thể làm tín đồ của tôn giáo bạn. Riêng tại họ đạo Mêthôđít và họ đạo của tôi, vị mục sư và tôi thường luân phiên giảng trong nhà thờ của nhau, và khi mục sư đi vắng thì tôi đến cử hành nghi lễ thay ông.
Nhưng đây chỉ là những trường hợp ngoại lệ. Thường thì chúng ta chẳng bao giờ công khai đi đến hợp nhất. Điều này làm tôi thất vọng vì tôi cảm thấy chúng ta cần phải xích lại gần nhau. Tôi nghĩ rằng đây là điều Thiên Chúa muốn. Chúng ta nói duy nhất và hiệp thông, nhưng lại không đủ can đảm để trở nên một. Hiệp nhất là một kinh nghiệm hãi hùng khi mà lối sống của giáo sĩ và các cơ cấu bảo trì tôn giáo lại quá lệ thuộc vào tổ chức. Hàng giáo phẩm thì nghĩ rằng muốn đi đến hiệp nhất thật sự, trước tiên các nhà thần học phải đồng ý về một công thức, rồi sau đó dân chúng mới được phép hiệp nhất. Điều này không hẵn đúng, bởi vì không phải chỉ cần các nhà thần học đồng ý về một công thức là dân chúng như một đàn cừu không biết suy nghĩ sẽ tự động thay đổi niềm tin lâu nay của mình mà theo công thức của các ông. Nếu có được hiệp nhất thì tiên vàn dân chúng phải hiệp nhau trong đức ái, và khi đức ái xoá bỏ được bức tường chia cách thì dân chúng sẽ hiểu được Đức Giêsu nhiều hơn mà chấp nhận những gì ngài muốn. Đấy là nền tảng thần học của hiệp nhất.
Ngày nọ tôi cảm nghiệm rằng mặc dù chúng ta hăng say hoạt động cho giáo hội, nhưng điều Đức Giêsu muốn thì lại không phải là động lực của công việc chúng ta. Đối với những người lãnh đạo Kitô thì điều Giêsu muốn phải đứng hàng đầu, nhưng Giáo hội, thần học và giáo luật lại là động lực căn bản! Vì thế nhiều vị trong khi hành sự không quan tâm đến điều Đức Giêsu muốn. Trong khi đó thì Kinh Thánh là tôn giáo đối với người Tin Lành vì họ không tin quyền bính giáo huấn của giáo hội, trong khi chính giáo hội xác định thẩm quyền của Kinh Thánh. Còn đối với những người lãnh đạo Do thái thì văn hoá và sắc tộc của họ là tôn giáo. Như vậy thì điều Thiên Chúa muốn xem ra không quan trọng lắm, có khi lại là chướng ngại. Do đó chúng ta cũng hiểu được tại sao có chiến tranh tôn giáo ở Hung Gia Lợi và Bắc Ái Nhĩ Lan, cũng như ở Nam Phi và Đất Thánh. Khi đi giảng về đời sống và điều Đức Giêsu dạy, tôi phải ngạc nhiên khi nghe dân chúng nói rằng họ chưa bao giờ nghe nói về đời sống của Đức Giêsu. Một linh mục rất thánh thiện mà tôi kính yêu từ lâu nói rằng ông rất đổi ngạc nhiên vì làm sao tôi có thể nói về Đức Giêsu suốt một tiếng rưỡi đồng hồ. Khi tôi hỏi tại sao ông ngạc nhiên thì ông bảo rằng trong đại chủng viện không có dạy về Đức Giêsu. Người ta chỉ dạy thần học, Kinh Thánh, Giáo luật và một số môn học khác, nhưng không ai dạy môn học về con người Giêsu, về điều Giêsu nghĩ và về viễn tượng của Ngài.
Tôi cũng gặp phản ứng tương tự của người Tin Lành. Một sinh viên nói rằng chị ghi danh ở năm chủng viện danh tiếng trong đạo để có sự lựa chọn. Khi chị hỏi ở các văn phòng ghi danh có môn học nào về Đức Giêsu không, thì chị rất ngạc nhiên vì nơi nào cũng trả lời giống nhau: «Không, nhưng có những môn về Kitô học được tùy ý lựa chọn.» Một sinh viên khác muốn mời tôi đến chủng viện của anh để nói về Đức Giêsu. Tôi bảo anh nên giàn xếp với phân khoa gửi giấy mời tôi. Trong khi chờ đợi, tôi đề nghị với anh là nên yêu cầu một giáo sư thần học trong ban giáo sư để dạy về Đức Giêsu. Anh ta trả lời rằng anh và các sinh viên khác đã đề nghị với một giáo sư thần học nổi tiếng, nhưng ông ta trả lời rằng người ta thuê ông dạy thần học chứ không phải dạy về Giêsu.
Vài năm về trước tiến sĩ Gioan Killinger là một nhà thần học đạo đức Báptít mời tôi đến diễn thuyết tại đại học của ông. Sau buổi diễn thuyết, một số giáo sư thần học và mục sư đến cám ơn tôi đã diễn thuyết về Đức Giêsu. Các ông nói rằng rất cảm động khi nghe tôi nói về Đức Giêsu, xem ra rất mới lạ đối với các ông. Các ông nói rằng đọc Kinh Thánh chưa chắc hiểu được Giêsu cách chu đáo. Các ông cũng nói bây giờ các ông mới biết rằng biết Kinh Thánh không có nghĩa là biết Giêsu. Tôi rất cảm động về lòng khiêm nhường của các ông.
Điều này cho biết tại sao sách Giôsê và những buổi nói chuyện về Giêsu được hưởng ứng cách nồng nhiệt. Dân chúng khao khát Giêsu và muốn biết đích thực Tin Mừng của ngài, dẫu họ là Kitô, Do thái, Ấn giáo, Phật giáo và cả những người không thuộc tôn giáo nào. Tin Mừng của Đức Giêsu đáp ứng sâu xa những khát vọng của tâm hồn nhân loại, dù họ có đức tin hay không. Tin Mừng của ngài phải được thể hiện trong cách thức chúng ta hiểu biết Giêsu là ai, ngài cảm nghĩ thế nào. Chúng ta không thể nào hiểu được Tin Mừng của Đức Giêsu khi chưa biết con người của ngài, khi chưa hiểu được phản ứng tâm lý của dân chúng nghe ngài nói chuyện trong các làng mạc hay trên các sườn đồi ở Palêtina. Khi thấy Đức Giêsu đi lại cách bình thường với dân chúng nhất là với những người bị xem là tội lỗi, cũng như thấy họ rất thoải mái với Ngài, bạn sẽ thấy rằng ngài không làm vẻ thánh thiện hay xét đoán. Vì thế người tội lỗi cảm thấy mình được ngài chấp nhận và rất nhẫn nại với họ, để từ từ họ đạt đến những lý tưởng cao hơn với một đời sống tốt đẹp hơn. Cái nét đơn sơ nhỏ mọn ấy là một phần quí giá của Tin Mừng vì nó nói lên thái độ của Đức Giêsu đối với những người bị xem là tội lỗi và sống bên lề xã hội. Đức Giêsu không phải dung túng họ nhưng chấp nhận con người của họ, để họ cảm thấy thoải mái khi đến với ngài. Mặc dù họ không thấy được thiên tính của ngài, nhưng thái độ của ngài đối với họ khác xa với thái độ của các giáo sĩ xem họ là tội lỗi và phạm luật. Đức Giêsu không đánh giá họ theo tiêu chuẩn luật pháp. Cha của ngài dựng nên họ thế nào thì ngài chấp nhận họ thế ấy, nghĩa là bất toàn, thiếu sót, ít hiểu biết và hay sợ hãi. Ngài hiểu được cảm nghĩ của họ do chính kinh nghiệm của mình, và thông cảm với những lo âu sợ hãi của con người mỏng dòn. Tình nồng ấm và thân thiện của ngài làm họ xúc động đi theo ngài. Cử chỉ khiêm tốn của ngài rất có ý nghĩa đối với những người đơn thuần này. Họ thường bị khinh rẻ do những người tự xem là công chính và đứng đắn. Họ thấy ngài là một nhân vật thánh thiện, và vì ngài yêu mến họ nên họ theo ngài. Ngài đúng là thánh thiện và không giống những kinh sư hay nhóm người Pharisêu chỉ tuân giữ lề luật, nhưng dân chúng lại thấy họ không thánh thiện như ngài. Dân chúng thấy ngài yêu mến Thiên Chúa và lấy làm hãnh diện được ngài yêu mến nữa.
Hiện tượng đó cũng xảy ra trong tôn giáo ngày nay, trong tất cả mọi tôn giáo. Người ta thường hiểu đạo như dân chúng thời Đức Giêsu hiểu đạo, nghĩa là chỉ chú trọng vào lề luật và hình phạt khi phạm luật. Các vị lãnh đạo tôn giáo thì hành sự như là những kẻ thi hành luật pháp, điều này làm cho dân chúng tránh xa họ và xa tôn giáo nữa. Dân chúng khao khát tiếp xúc với Vị Chủ Chăn nhân hậu, thương yêu họ hơn là xem họ có tuân giữ luật đạo không, tìm đến họ khi họ yếu đuối và tội lỗi. «Tôi là Chủ Chăn nhân hậu. Tôi đi tìm những con chiên bị thất lạc, bị thương tích, bị tai nạn và đau thương. Khi tìm được chúng, tôi sẽ vác chúng lên vai đem về nhà, bởi vì tôi yêu thương chúng.» Ngày nay dân chúng cũng cần có một Thiên Chúa hiền lành, nhưng họ đã phí công tìm ra một Thiên Chúa theo sự mô phỏng của loài người! Các vị lãnh đạo tôn giáo ngày nay cũng giống như thời Đức Giêsu, họ thường quan tâm đến hành chánh đạo giáo, thi hành luật pháp, lý lẽ thần học hơn là làm nhân chứng cho vị Chủ Chăn hiền lành. Mặc dù dạy những lý tưởng cao siêu, nhưng Đức Giêsu lại rất nhân hậu đối với con người khi họ chưa đạt được những lý tưởng ấy. Thiên Chúa quan tâm đến các con cái của ngài chứ không phải đến tôn giáo. Thường thấy các giáo sĩ chỉ quan tâm đến đạo mà không nghĩ rằng tâm trạng luật pháp của các ông đã gây nên đau khổ cho dân chúng. Đấy cũng là điều làm cho Giêsu phải đau lòng. Khi thấy những vị có tư cách bệnh hoạn đỗ đạt từ chủng viện, mang đầu óc bị ám ảnh với cái tôi to lớn và nhiệm nhặt luật đạo, dân chúng không khỏi có cảm tưởng rằng họ là những kinh sư và Pharisêu tái sinh. Tội nghiệp cho những vị giáo sĩ ngay lành phải phí tổn bao công sức mục vụ để hàn gắn những vết thương do những vị kia gây nên.
Tuy nhiên chúng ta đang sống một trong thời kỳ rất hấp dẫn của lịch sử. Chúng ta đang tái định giá những giá trị có từ lâu nay, những giá trị đã làm cột trụ cho nền văn minh của chúng ta. Tôn giáo là một trong những cột trụ đó cũng sẽ phải được mổ xẻ. Nếu muốn định giá Kitô giáo cách đúng đắn, không phải chỉ phân tích giáo lý và luân lý của đạo mà còn phải đi thẳng vào cái tâm của đạo là Đức Giêsu. Phải khiêm tốn cố tâm tìm hiểu ngài, vì ngài chính là tôn giáo của chúng ta. Phải tìm hiểu ngài suy nghĩ thế nào, vì tư tưởng của ngài chính là nền thần học của chúng ta. Phải tìm hiểu ngài sống thế nào, vì đời sống của ngài là nền luân lý của chúng ta. Kitô giáo, kể cả Kinh Thánh, chỉ là phương tiện đưa sứ điệp của Giêsu, là chiếc xe đưa ngài vào lịch sử.
Những trang sau đây chỉ là bức tranh vẽ chân dung Đức Giêsu của tôi. Nó rất bất toàn, nhưng là một cố gắng đáp lại khát vọng của dân chúng muốn tìm hiểu tư tưởng và tâm hồn của Đức Giêsu để tiến lại gần ngài hơn. Và trong niềm thân cận đó, họ có thể biết ngài nhiều hơn: điều mà họ không bao giờ nghĩ là có thể làm được. Rồi trong niềm thân cận đầm ấm sâu xa đó và chìm lặng trong kinh nguyện, họ có thể truyền đạt sự hiểu biết của họ về Đức Giêsu cho một thế giới đang tha thiết tìm kiếm ngài và Tin Mừng mà ngài muốn chia xẻ với chúng ta. 

______________________



Comments

Popular posts from this blog

Đức Giêsu Trước Thời Kitô giáo (Albert Nolan)

Hãy cải thiện Giáo Hội từ gốc chứ đừng từ ngọn

Về phản ứng của Ban Biên Tập Công giáo Việt Nam