Các Thiên Thần, Phần hồn của Thân Thể Mầu Nhiệm
Các Thiên Thần,
Phần hồn của Thân Thể Mầu
Nhiệm
Linh mục Phêrô Phan
Văn Lợi
Thánh Phao-lô, ở đỉnh cao suy tư thần học vào cuối đời,
từng xác quyết về Đức Ki-tô như sau:
«Thánh Tử là Hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là Trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dầu là Bệ thần hay Quản thần, Lãnh thần hay Quyền thần, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại
trong Người. Người cũng là Đầu của Thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh…» (Cl 1,15-20). Và «Thiên Chúa cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu, thiên
ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó
là… quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô….tôn Đức Ki-tô lên
trên mọi quyền lực thần thiêng» (Ep
1,9-10.21).
Những lời ấy cho thấy ngay cả
thọ tạo vô hình, tức là các thiên thần, cũng thuộc về Đức Ki-tô, Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) số 331 gọi
Người là trung
tâm của thế giới thiên thần. Nghĩa là các thiên thần thuộc về Hội Thánh, Thân Thể Mầu
Nhiệm (gọi tắt là Nhiệm Thể) của Chúa Ki-tô, một thực thể bao gồm toàn bộ vũ trụ, hay còn gọi là Đức Kitô
Toàn Thể (Christus Totus, GLHTCG số 795). Chính Thánh Tôma Aquinô cũng từng nói
«Hội thánh gồm các phàm nhân và thiên
thần» (De Veritate q. 29, a. 7 ad 5). Do đó có thể cho rằng hai thành phần này,
một bên thuần thiêng, một bên vật thể, làm nên phần hồn và phần xác của Nhiệm
Thể.
Nhưng trước khi trình bày các thiên
thần như là
phần hồn của Nhiệm Thể, xin minh định ngay một điều quan trọng: họ là phần hồn chứ không phải là Linh hồn
của Nhiệm Thể. Chính Chúa Thánh Thần mới là Linh hồn của Nhiệm Thể, như lời thánh Phao-lô nói: «Chỉ
có một Thân thể, một Thần Khí» (Ep 4,4, x. 1Cr 12,13), vì Người là Đấng tác
sinh, thánh hóa và liên kết. Đức Thánh
Cha Bê-nê-đíc-tô XVI cũng từng dạy: Chúa Thánh Thần là Linh hồn của Giáo hội,
và nếu không có Người, Giáo hội sẽ chỉ là một tổ chức nhân loại mà thôi (CNA
31-05-2009. Xem GLHTCG 809).
1- Thiên thần, loài thọ tạo đặc biệt
Thiết tưởng
chúng ta không nên thoạt tiên cho rằng Thiên Chúa đã tạo dựng các thiên thần để lo phục dịch quanh
Người, y như một ông vua cần có
quần thần hầu hạ để
sướng thân, có cung
phi mỹ nữ đàn hát cho vui tai.
Bản thân Ba Ngôi Thiên Chúa đã tự mình có đủ vinh quang và hạnh phúc, chẳng cần
ai cho thêm nữa. Vả lại, ngay từ ngữ «thiên
thần» (=tôi tớ Thiên Chúa, tiếng Việt dịch chữ «angelus/ange/angel» của La/Pháp/Anh) bắt nguồn từ tiếng Hip-ri «mal'ak», tiếng Hy-lạp «angelos», có nghĩa là «sứ giả». Đây là cách gọi không do bản
tính nhưng do chức vụ: thiên thần là những hữu thể được Thiên Chúa sai đi (nên còn
có cách dịch: «sứ thần», «thần sứ», «thiên sứ»). Sai đi thi hành thánh ý, mệnh lệnh của Người, phục vụ công
việc của Người (x. Tv 103,20). Công việc đó không gì khác là chương trình
cứu độ mà Thiên Chúa thực
hiện nhờ Ngôi Hai nhập thế và nhập thể, với mục đích tối hậu là quy tụ muôn loài
đã được cứu chuộc vào trong Đức Ki-tô, làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, hầu đưa tất cả về với
Thiên Chúa (x. 1Cr 15,28). Thư Do Thái gọi các thiên thần là những «bậc
thiêng liêng được sai đi để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hướng ơn cứu độ» (1,14). Chương trình cứu độ này khởi đầu từ vườn Địa đàng và hoàn tất
trong ngày Chúa Ki-tô quang lâm, «khi Con Người đến
trong vinh quang của Người, có tất cả các
thiên sứ theo hầu…» (Mt 25,31).
Trong công trình ấy, đứng
ngay sau Chúa Ki-tô chính là Đức Ma-ri-a. Vì thế Giáo hội xưng
tụng Mẹ, dù là phàm nhân, vẫn là Nữ hoàng Thiên quốc, Nữ vương
chín phẩm thiên thần. Và chính vì được sai đi thực
hiện mệnh lệnh Thiên Chúa dưới trần gian, thấy được
những kỳ công tình yêu của Người nơi cõi
thế, các thiên thần có thêm lý do để ca ngợi, cảm tạ Thiên Chúa, cầu xin cho
loài người và dâng lên những lời nguyện của họ (x. Tb 12,12)
trên chốn triều đình Thiên quốc.
Để thử hình dung việc Thiên Chúa
tạo dựng các thiên thần ra sao và bản tính các vị thế nào, thiết tưởng trước tiên cần nhớ lại việc sản sinh trong
Thiên Chúa. Thiên Chúa tự đời đời đã có một ý tưởng về mình và từ đó sinh ra Ngôi Lời (vì phản ảnh hoàn
toàn Thiên Chúa, x. Ga 1,1-14,). Ngôi Lời được gọi là Ngôi Con và Đấng sinh thành được
gọi là Ngôi Cha. Tình yêu giữa Ngôi Cha và Ngôi Con làm nên Ngôi Thánh Thần. Cả
ba Ngôi đồng bản tính và đồng bản thể (nên một Thiên Chúa).
Về loài người chúng ta, vốn là
những hữu thể đã được Thiên Chúa chọn trước cả khi tạo thành vũ trụ, được tiền định cho làm nghĩa tử (x. Ep 1,4-5), được Người cấu
tạo tạng phủ, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân (x. Tv 139,13), thì theo lối
nói của triết học thánh Tô-ma A-qui-nô (mô chất thuyết), mỗi con người chính
là một ý tưởng và tình cảm của Thiên Chúa in vào vật chất, làm nên một ngôi vị,
một nhân vị (có trí hiểu/tư tưởng,
lòng mến/tình cảm và ý chí tự do, trong một xác thể).
Vậy nếu các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng,
những ngôi vị có trí hiểu, lòng mến và ý chí tự do, nhưng vì là
những hữu thể được Thiên Chúa tạo nên và sai đi phục
vụ công trình của Người là xây dựng Nhiệm Thể, nên các ngài phải được coi
như một thành phần của Nhiệm Thể, làm nên phần hồn, trong lúc loài người và
mọi thụ tạo vật chất làm nên phần xác. Và có thể quan niệm bản tính của các
ngài chính là những ý tưởng và tình cảm của Thiên Chúa đối với Nhiệm Thể mà đã
trở nên những ngôi vị. Ngoài ra, các
ngài còn bất tử, trổi vượt hơn mọi thụ tạo hữu hình về
mặt hoàn hảo. Vinh quang rực rỡ của các ngài minh chứng điều ấy (x. GLHTCG
330).
Ở đây ta nhớ lại rằng
trong Cựu Ước, nơi các cuộc thần hiện xảy ra cho một số nhân vật (như Mô-sê
trong hoang địa, Xh 3,1tt; Ghít-ôn tại
gia đình,
Tl 6,6-15…), từ «Thiên Chúa» và từ «sứ thần/thiên sứ» hay hoán đổi cho nhau.
Chẳng hạn Xh 3,1-6: «Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô,
tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi
Khô-rếp. Thiên sứ của ĐứC CHÚA hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây.
Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu
rụi. Ông tự bảo : “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được : vì sao
bụi cây lại không cháy rụi ?” Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ
giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông : “Mô-sê ! Mô-sê !” Ông thưa : “Dạ, tôi đây
!” Người phán : “Chớ lại gần ! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng
là đất thánh.” Người lại phán : “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa
của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che
mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa». Việc hoán đổi
danh xưng này
không có gì khó hiểu. Trên phương diện tinh thần, tôi biểu lộ mình qua tư tưởng
và tình cảm. Tư tưởng và
tình cảm của tôi chính là tôi trên phương diện tinh thần. Tình cảm và tư tưởng
của Thiên Chúa (bên ngoài bản tính và bản thể của Người, tức các thiên thần) thì cũng như
chính Người vậy.
2- Các thiên thần là tư tưởng và tình cảm của Thiên Chúa
ra sao?
Pseudo-Dionysius, một triết gia Ki-tô giáo cuối thế kỷ 5, đã sử dụng nhiều đoạn từ Cựu Ước lẫn Tân Ước để đưa ra một phẩm trật
thiên thần trong cuốn «De Cœlesti Hierarchia» (Về Phẩm trật trên
trời) của ông. Các thiên thần được phân hạng và xếp loại, được tổ chức thành ba cấp và chín
phẩm, mỗi cấp có ba phẩm.
● Cấp I gồm có Seraphim (Xê-ra-phim, Luyến Thần), Cherubim (Kê-ru-bim, Minh
Thần) và Ophanim (Ô-pha-nim, Throni, Bệ Thần).
● Cấp II gồm Dominationes (Quản Thần), Virtutes (Dũng Thần) và Potestates (Quyền
Thần).
● Cấp III gồm Principatus (Lãnh Thần), Archangeli (Tổng Thần, Tổng lãnh
Thiên thần) và Angeli (Hộ Thần, Thiên thần Hộ thủ).
Cho tới nay, việc phân hạng và xếp loại của Pseudo-Dionysius vẫn được các nhà thần học
công nhận. Quan trọng hơn
nữa, Phụng vụ Giáo hội đưa
nó vào trong mọi Kinh Tiền tụng Thánh lễ, khi nhắc đến phẩm thiên thần này, khi
nhắc đến phẩm thiên thần
nọ (xem dưới), và dành 2 lễ để kính hai phẩm
thiên thần cuối cùng (Tổng thần ngày 29-09 và Hộ thần ngày 02-10).
Người ta đã đưa
ra nhiều cách thích lẫn mô tả về 3 cấp, 9 phẩm thiên thần ấy, nhưng hầu hết chỉ nói đến
mối liên hệ giữa các ngài với Thiên Chúa như Đấng Tạo Hóa và với loài người hay
thế giới loài người cách chung. Đặt trong nhãn giới «các thiên thần là những sứ giả phục vụ công trình của Thiên Chúa Ba
Ngôi dưới gian trần, là những tư tưởng và tình cảm của Thiên Chúa (Ngôi Con) đối với
Thân Thể Mầu Nhiệm của mình, là phần hồn của Nhiệm Thể Đức Ki-tô», thì chúng ta có
thể lý luận như
sau:
Để thực hiện một công trình, trước hết tác giả phải có lòng yêu mến công
trình đó, hiểu biết đại
cương công trình đó và
có một kế hoạch để
làm cho công trình được chắc chắn, vững chãi.
Thứ đến, phải dùng tất cả
mọi sức lực (trí tuệ, uy tín, ảnh hưởng, tài chính, nhân viên bảo vệ, phương án đề phòng những
cản trở) để giữ gìn cho công
trình được an toàn và lớn mạnh.
Cuối cùng, phải nắm được công trình trong mọi phần của nó, từ lớn đến nhỏ, từ rộng đến hẹp, từ đại thể đến chi tiết, từ cái
phức tạp đến cái đơn giản, để thực hiện một sự
phối hợp hoàn hảo.
a- Ba phẩm thiên thần cấp I gồm Xê-ra-phim (Luyến Thần,
Thần Sốt Mến), Kê-ru-bim (Minh Thần, Thần Trí Tuệ) và Ô-pha-nim (Bệ Thần, Ngai
Thần) vậy phải chăng
chính là tình yêu, sự hiểu biết và là kế hoạch củng cố của Thiên Chúa dành cho
Nhiệm Thể mà trong thực tế đã thành những ngôi vị?
Thiên thần Xê-ra-phim đã được đề cập
trong I-sai-a 6,1-7. Các vị hầu cận ngai Thiên Chúa và liên tục hát
lời ca ngợi: «Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng
Thánh!». Sự thánh thiện của
Thiên Chúa chính là Tình yêu, tình yêu vừa biểu hiện nơi bản thân lẫn nơi hành động của Người. Rồi một trong
các thiên thần Xê-ra-phim gắp hòn than hồng chạm vào miệng ngôn sứ I-sai-a để ông được tha lỗi
và xá tội (phạm tội là không yêu mến). Trong Phụng vụ, thiên thần Xê-ra-phim được
nhắc tới trong Kinh Tiền tụng Mùa Chay IV (hiệu quả của chay tịnh), Kinh Tiền
tụng Đức Mẹ I (thiên chức
làm mẹ của Đức
Trinh Nữ), Kinh Tiền tụng chung II (ơn cứu độ nhờ Đức Ki-tô). Ba Kinh Tiền tụng này nói đến tình yêu
Thiên Chúa hay việc trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Sau khi nguyên tổ ăn trái cây biết lành biết dữ,
phạm tội bất tuân (x. St 2,6), bị đuổi khỏi địa đàng, Thiên Chúa đã dùng thiên thần Kê-ru-bim để canh giữ
cây hiểu biết đó và cả cây trường sinh nữa (x. St 3,24). Thiên thần Kê-ru-bim cũng đã được
ông Mô-sê theo lệnh Thiên Chúa đúc thành hai tượng bằng vàng đặt ở 2 đầu của Hòm Bia (x. Xh 25,18-20)
trong đó sẽ đặt Chứng Ước (Bản Thập giới) biểu lộ ý muốn Thiên Chúa mà con người cần phải hiểu rõ,
và từ trên đó Thiên Chúa sẽ ban cho ông Mô-sê các chỉ thị của Người (x. Ds 7,89).
Các Bệ thần được
chính thánh Phao-lô đề cập rõ ràng trong thư Cô-lô-xê 1,16 (đầu bài). Theo tác
giả Wesly Baines (bài đã dẫn, xem chú thích 3), phẩm thiên thần này thuộc số
những vị có hiểu biết cao nhất về các công việc của Thiên Chúa, có khả năng truyền đạt bản chất đầy đủ của lời Chúa,
chuyển các sứ điệp
cho những thiên thần cấp thấp hơn. Trong Phụng vụ, các Bệ thần được nhắc tới trong
các Kinh Tiền tụng Mùa Vọng I, Mùa Vọng II, Giáng Sinh I, Hiển Linh là các kinh
cho thấy Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch cứu độ của Người; trong Kinh Tiền tụng Thánh
Thể I vốn nói đến Hy lễ và bí tích của Đức Ki-tô là đỉnh cao việc thực hiện kế hoạch cứu độ.
b- Ba phẩm thiên thần cấp II gồm Quản Thần (Dominationes,
Dominions), Dũng
Thần (Virtutes, Virtues) và Quyền Thần (Potestates, Powers) chẳng cho thấy rằng
đó chính là các dạng
sức mạnh mà Thiên Chúa cần phải bày tỏ và rồi đã biến thành những hữu thể có
ngôi vị để kế hoạch cứu độ thắng được các trở ngại, các
kẻ thù (ma quỷ) mà thành toàn hay sao?
Quản Thần được nhắc đến trong Thư Cl 1,16 và 1Cr 15,24. Theo Bách khoa
Toàn thư Wikipedia, các vị được coi là những thiên thần lãnh đạo, điều phối hoạt động của các thiên thần cấp dưới. Nhiệm vụ chính của họ là giữ
gìn trần thế đi đúng hướng
bằng cách ban sức mạnh cho những nhà cai trị đất nước. Điều này cần thiết cho việc thực hiện ơn cứu độ. Theo tác giả Leslie White (bài đã
dẫn, x. chú thích 3), phẩm thiên thần này được nói là giữ cho thế giới trong
trật tự. Các vị được biết qua việc đem công lý của Thiên Chúa vào những hoàn cảnh bất công, tỏ lòng thương xót
của Thiên Chúa với con người và giúp các thiên thần thuộc những cấp dưới ở yên trong hàng ngũ và làm
việc có hiệu quả. Tác giả Wesly Baines cũng nói phẩm thiên thần này duy trì trật tự giữa các thiên
thần (trật tự là sức mạnh), đứng đầu các quốc gia, hướng dẫn các nhà lãnh đạo.
Phụng vụ nhắc đến các Quản thần trong các Kinh
Tiền tụng Mùa Vọng I, Mùa Vọng II, Giáng Sinh I, lễ Hiển Linh, Mùa Chay I, Mùa
Chay IV, vốn nói đến việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người và chịu chết để đem lại một trật tự mới cho nhân loại.
Rồi trong các Kinh Tiền tụng Chúa nhật Thường niên I (mầu nhiệm Vượt qua), CNTN II (mầu nhiệm cứu độ), và các Kinh Tiền tụng Thánh
Thể I, Đức Mẹ
I, Các Thánh Tông đồ I, toàn những tác nhân cho việc thiết lập trật tự mới này.
Các Dũng thần được Kinh Thánh
nói đến trong Ep 1,21 và 1Cr 15,24. Nhiều học giả cho rằng các vị giám sát sự
chuyển động
của các thiên thể để đảm bảo
rằng vũ trụ
tuân theo chuyển động tự nhiên. Họ tăng thêm sức mạnh cho những nhân vật tài năng dưới gian trần, luôn sẵn sàng,
dũng cảm thi hành những việc phi thường, khuyến khích con người giữ vững niềm tin vào Thiên
Chúa.
Các Quyền thần được đề cập trong Cl 1,16 và 1Cr
15,24. Các vị được coi là Thiên thần Chiến binh vì bảo vệ không chỉ vũ trụ mà cả nhân loại chống lại sự dữ.
Họ có quyền trên ma quỷ, trong mục đích kiềm chế sức mạnh của chúng. Họ cũng giúp những ai đang vật lộn với các đam mê và
tật xấu để trục
xuất khỏi lòng mọi sự dữ do kẻ thù của đức tin cổ vũ. Nói tóm,
các Quyền thần phụ lực với các Dũng thần giao tranh
với ma quỷ, chiến đấu chống lại các thế lực xấu xa, đi ngược lại
với trật tự quan phòng của Thiên Chúa và tác hại cho công việc cứu rỗi của Người.
Các Dũng thần và Quyền thần được nhắc tới trong loạt Kinh Tiền tụng Phục sinh (I-V), Thăng Thiên I+II. Các vị ca tụng sức mạnh chiến thắng
tội lỗi và tử thần của Đấng Phục sinh. Người ta cũng gặp lại các Dũng thần trong Kinh Tiền tụng Thánh Tử đạo I
c- Ba phẩm thiên thần Cấp III gồm Lãnh Thần (Principatus, Principalities),
Tổng Thần, Tổng lãnh Thiên thần (Archangeli, Archangels) và Hộ Thần, Thiên thần
Hộ thủ (Angeli Custodi, Guardian Angels) được coi là những thiên thần làm nên đạo binh thiên quốc,
hoạt động như là sứ giả của Thiên Chúa nơi
thế gian, giữa loài người.
Thế giới con người gồm những cá nhân, các cá
nhân ấy hợp thành những cộng đồng, từ nhỏ đến lớn: gia đình, họ tộc, làng xóm, tỉnh thành, quốc gia, châu lục;
hoặc thành những tập thể về mặt giới tính, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, màu
da…. Những cá nhân và những tập thể ấy cần được cứu chuộc và đều nhận được sự quan
tâm (trong tư tưởng, tình cảm) của Thiên Chúa. Chính những tư tưởng và tình cảm loại ấy của Thiên Chúa
làm nên các thiên thần trong cấp cuối cùng này. Thánh Tô-ma A-qui-nô từng nói: «Có những thiên thần hộ thủ cho các vương
quốc, các dân tộc, các thành thị, các cộng đoàn tu sĩ, và cho mỗi tín hữu».
Lãnh thần được nói đến
trong Cl 1,16; Rm 8,38; 1Cr 15,24. Theo nhiều học giả (Wesley Baines), nhiệm vụ
của phẩm thiên thần thứ 7 này là thực hiện tấn phong cho các lãnh chúa, giám
sát các nhóm người, quan thầy các định chế, bảo hộ cho các quốc gia trên trái đất
và cả Giáo hội. Họ cũng bảo đảm việc hoàn thành thiên ý giữa các tập thể này. So với 6 phẩm trên, các
Lãnh thần và hai phẩm dưới giao thiệp với loài người trực tiếp hơn bằng những cách mà chúng ta có thể
hiểu.
Các Tổng thần (Tổng lãnh Thiên thần) chỉ xuất hiện hai lần trong Tân Ước (1
Tx 4,16 và Gđ 1,9). Theo thánh Grê-gô-ri-ô, các vị củng cố loài người trong đức tin, soi chiếu
tâm trí họ với ánh sáng do sự hiểu biết Tin Mừng, mạc khải các mầu nhiệm đạo thánh. Được nêu tên rõ ràng thì
có Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en. Ba vị được mệnh danh là những đại sứ giả của trời cao vì được Thiên Chúa sai loan báo
các sứ điệp quan trọng cho
loài
người,
giao tiếp và tương tác với nhân
loại.
Mi-ca-en được tin là thiên thần
đã truyền linh hứng
của Thiên Chúa cho Thánh Gioan trong sách Khải Huyền và được biết là vị bảo vệ
Giáo hội, canh giữ Giáo hội khỏi ma quỷ, trục xuất chúng khỏi Thiên đàng (x. Kh
12,7-8). Ngoài
ra, ngài cũng từng được
gọi là «vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn
thường che chở dân It-ra-en» (Đn 12,1). Gáp-ri-en trước tiên
được đề cập trong sách Đa-ni-en
và giúp Đa-ni-en hoàn thành sứ vụ của ông trên thế gian. Sau đó, Gáp-ri-en hiện ra
với tư tế Da-ca-ri-a và Đức
Trinh Nữ Ma-ri-a, trao sứ điệp lớn nhất là Thiên Chúa có ý định nhập thể và
dựng lều giữa loài người. Ra-pha-en được đề cập trong sách Tô-bi-a, hướng dẫn Tô-bi-a dọc đường, chữa ông Tô-bit
(cha Tô-bi-a) khỏi mù và cứu bà Sa-ra (vợ Tô-bi-a) khỏi quỷ.
Cuối cùng là các Thiên thần, hay nói cho chính xác là các Hộ thần, Thiên
thần Hộ thủ. Sách GLHTCG số 336 đã trích lời thánh Ba-si-li-ô để dạy rằng: «Bên cạnh mỗi tín hữu đều có
một Thiên thần làm Đấng bảo trợ và mục tử, hướng
dẫn họ đến sự sống.» Không những tín
hữu mà là mỗi một con người. Đây là điều
hết sức quen thuộc với chúng ta. Nhưng thiết tưởng
không nên cho rằng có bấy nhiêu con người trên trần gian thì Thiên Chúa dựng
nên bấy nhiêu thiên thần hộ thủ rồi giao cho mỗi vị phụ trách một người.
Theo những điều trình bày ở trên, thiên thần hộ thủ chính là ý tưởng
và tình cảm của Thiên Chúa dành cho mỗi một con người, và
ý tưởng lẫn tình cảm này đã biến thành một ngôi vị, mang tên thiên thần hộ thủ,
ngày đêm bên cạnh chúng ta.
Vì trong phụng vụ, Giáo hội kết hợp mình với các Thiên
thần để tôn thờ Thiên Chúa ba lần thánh, ngợi khen và cảm tạ Người,
nên hầu như mọi Kinh Tiền tụng (trên 50 kinh) đều nhắc đến ba
phẩm thiên thần cuối cùng này (có khi gọi chung là Đạo binh các Thiên thần).
Kết luận
Toàn bộ Kinh Thánh cũng như lịch sử Giáo hội và tiểu sử một số vị thánh cho
thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa thế giới thiên thần với thế giới loài người.
Những suy tư
trên đây cố gắng cho thấy mối liên hệ đó chặt chẽ vô cùng, do chỗ các thụ tạo trời cao ấy
và các thụ tạo thế trần đều hợp nhất với nhau trong một thực thể vĩ đại gọi là Giáo hội,
hay đúng hơn là Hội thánh
(những gì thánh thì hội lại, như chúng tôi sẽ có dịp trình bày trong một bài khác),
và gọi chính xác hơn nữa là Thân Thể Mầu Nhiệm (Corps mystique) của Đức Ki-tô, Đức Ki-tô
Toàn thể (Christ total, x. GLHTCG 795), Đức Ki-tô Vũ trụ (Christ cosmique, như kiểu nói của Linh
mục Teilhard de Chardin).
Nếu đúng như chúng tôi đã
trình bày, mọi thiên thần trong 3 cấp 9 phẩm đều là những ý tưởng và tình cảm
của Thiên Chúa, của Đức
Ki-tô Đầu Nhiệm Thể, đối
với toàn thể loài người chúng ta và thế giới bao quanh chúng ta, thì đó là điều
khiến chúng ta cảm động
và thêm lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng luôn tìm mọi cách để ở gần chúng ta, ở
với chúng ta như Người đã
hứa. Tôn kính mến yêu các thiên thần (đặc biệt thiên thần hộ thủ) cũng là tôn thờ kính mến Thiên
Chúa, vì các vị cũng
chỉ là hiện thân (hay hóa thân) các ý tưởng và tình cảm của Người, là sự hiện diện
của Người, của tâm tình Người
bên cạnh chúng ta.
Cố gắng giúp hiểu rõ hơn về mầu nhiệm Hội Thánh và mầu nhiệm Thiên Chúa, đó
là mục đích của bài suy tư
thần học này vậy.
Lễ Các Thiên Thần Hộ Thủ 2-10-2021
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi,
Tổng Giáo phận Huế.
Comments
Post a Comment